Site icon Nuoitrong123

Hướng dẫn kỹ thuật nuôi Kì Nhông (Dông)

Con Kỳ Nhông hay còn gọi là con dông sống và làm tổ trên đất cát, dông là một loài bò sát đang là món đặc sản được các nhà hàng, quán nhậu tiêu thụ rất mạnh. Do bị săn bắt ngày càng nhiều và do môi trường sống bị biến đổi khiến cho loài dông có nguy cơ bị tuyệt chủng.

Chính vì vậy mà hiện nay một số nông dân nhanh nhạy chuyện làm ăn bắt đầu tính đến chuyện nuôi dông để bán thịt.

Hướng dẫn kỹ thuật nuôi Kì Nhông (Dông)

Giống và đặc điểm giống

Dông là tiếng địa phương gọi con kỳ nhông; có nơi như vùng Nghệ – Tĩnh gọi là nhông. Dông có nhiều giống, dông vùng đất cát gọi là dông cát benly. Tên Latin: Leiolepis belliana. Họ: dông Agamidae. Bộ: Có vảy Squamata. Nhóm: Bò sát: Kỳ nhông hay còn gọi là dông sống trên đất cát ven biển, phù hợp với các vùng đất ven biển miền Trung nước ta. Vóc dáng: Dông gần giống con tắc kè, da hồng đỏ, trên lưng có lớp gai chạy dọc theo xương sống và dọc theo hông có các vệt lớn màu đen, cam.

Tập tính sinh hoạt và môi trường sống

Dông là một loại bò sát sống thích nghi vùng đất cát tự nhiên ven biển của các tỉnh dọc Duyên hải miền Trung. Nói rõ ra ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận,các tỉnh nằm dọc Duyên hải miền Trung và một số thuộc miền Đông Nam Bộ như Bà Rịa Vũng Tàu,… nơi có nhiều cánh đồng cát trắng mênh mông mới có dông tập trung sinh sống. Loài bò sát này thường ra khỏi hang để sưởi ấm vào buổi sáng để điều hoà nhiệt độ cơ thể (chúng thuộc loài máu lạnh), tìm thức ăn và gây ấn tượng đối với các con cái xung quanh cả ngày, rồi rút vô hang vào xế chiều, đóng cửa hang lại bằng cát.

a. Trong môi trường tự nhiên

Trong môi trường tự nhiên, dông cát thường sống ở các đồi cát ven biển hoặc các gò đồi, nương rẫy ở khu vực đồng bằng. Chúng thường tập trung ở các bãi hoang, các cây bụi, các khu vực trồng phi lao, trồng keo, các ruộng hoa màu, các nghĩa địa và bãi đất hoang.

b. Điều kiện trong hang:

Dông tự đào hang. Hang của chúng ngoằn nghoèo và có cái sâu tới 1m. Cũng có hang chúng mở thêm ngách phụ để thoát hiểm. Có hang dài tới 2m. Vì hang ở sâu trong lòng đất nên nhiệt độ trong hang thường chênh lệch nhiều so với bên ngoài. Đây cũng là nơi điều hòa nhiệt độ (mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm). Nhiệt độ trong hang rõ ràng ổn định hơn nhiệt độ bên ngoài.

Theo Ngô Đắc Chứng, dông sọc thường có hang nông hơn dông hoa. Chúng chỉ đào sâu 40-50 cm. Một yêu cầu bắt buộc mà dông cát cần đó là độ ẩm. Trong điều kiện khô hạn của những vùng gần như sa mạc đó. Dông phải đào hang sâu xuống dưới lòng cát để tận hưởng độ ẩm trong lòng đất. Độ ẩm rất quan trọng đối với dông. Dông thường lui tới các gốc cây, các bụi cây để đào hang. Nhờ lá cây che chắn mà độ ẩm ở đó khá hơn những chỗ trơ trụi.

Tuy nhiên dông không sống được ở những nơi sũng nước hoặc nước thoát chậm. Vì vậy khi bố trí nơi nuôi dông phải hết sức lưu ý tới điều này. Đặc biệt đáy của nơi nuôi dông không nên lát kín vài sẽ cản trở việc rút nước khi mưa.

Quy luật hoạt động của dông cát.

a) Hoạt động theo mùa:

* Mùa hoạt động: Dông thường hoạt động vào mùa nắng ấm, từ tháng 4 đến tháng 10. lúc đó điều kiện nhiệt độ không khí thường 27-380C, nhiệt độ mặt đất 27-390C và độ ảm 30-80%. Dông ngừng hoạt động hoàn toàn vào những ngày mưa. Thậm chí khi có giông hay trời âm u là chúng tìm đường trú ẩn. Không bao giờ thấy dông hoạt động vào lúc trời mưa hay mưa vừa tạnh. Dông không chịu được nhiệt độ lạnh. Khi nhiệt độ ngoài trời xuống 24-250C và độ ẩm lên trên 90% là chúng đã tìm đường đi trú

* Trú đông: Mùa trú đông của dông cát thường là tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Vào thời kỳ này, nhiệt độ ngoài trời xuống dưới 250C và độ ẩm có lúc cao tới 85-900C. Dông lấp của hang và nằm lì trong hang. Tới mùa xuân khi nắng ấm về nhiệt độ lên cao dần, dông mới chui ra khỏi hang để kiếm ăn.

b) Hoạt động ngày, đêm:

Dông hoạt động vào ban ngày, buổi sáng chúng ra khỏi hang lúc 8-9 giờ, tới 13 giờ, 13 giờ 30 trưa thì chúng lại vào hang. Dông rất cảnh giác, nó không bao giờ nhảy ngay lên mặt đất. Nó thường thò đầu ra khỏi hang nghe ngóng rất kỹ, có khi tới 5, 10 phút sau đó mới chui ra. Lúc này nó phơi nắng, đó là đặc điểm của loài bò sát. Chúng phải tăng cường tích nhiệt dưới ánh sáng mặt trời. Một lúc sau nó mới đi kiếm ăn. Thời gian hoạt động của dông không nhiều, trung bình một ngày chúng chỉ chui ra khỏi hang 4-5 giờ đồng hồ để đi kiếm ăn. Thời gian còn lại chúng ằm yên trong hang để tiết kiệm năng lượng.

Làm chuồng, hố nuôi.

Kỹ thuật xây chuồng trại cho dông rất đơn giản, nhiều người còn ví chuồng nuôi dông như là một động cát tự nhiên thu nhỏ Trong tự nhiên dông cát tự đào hang và sống đơn độc, kín đáo ở những nơi yên tĩnh. Chúng ta có thể tận dụng và tổ chức ngay chỗ nuôi tại các khu vực đó hoặc các sinh cảnh tương tự. điều quan trọng là phải cố định chúng trong một không gian nhất định.

Vì vậy khu vực tổ chức nuôi dông phải được xây tường kín xung quanh. Dông là loài đào hang rất khỏe, vì vậy độ sâu của móng tường là vấn đề quan trọng. để tránh dông thoát ra ngoài chúng ta làm móng tường sâu 1,2m- 1,5m. Nếu móng xây được thì tốt nhưng tốn kém. Có thể sử dụng các tầm tôn phibrô xi măng và cắm sâu xuống cát 1m. Vit chặt các tấm đó lại với nhau để nối vòng quanh khu nuôi. Như vậy dông không đào hang để ra ngoài được. Bờ tường cũng phải cao để tránh dông trèo ra, do đó bờ tường cũng xây cao 1,2 m trở lên.

Một số nơi bà con chỉ xây cao 40 – 50 cm, phần còn lại là một tấm tôn cao 1m chạy vòng quanh. Vì tôn nhẵn nên dông không thể trèo hay bò ra ngoài được. Ta cũng có thể bố trí nuôi dông trên bãi cát hoang, các khu đất trồng cây bụi. cũng có thể kết hợp  nuôi dông trong các vườn cây. Tất nhiên khu nuôi phải được xây tường bao quanh. Dông rất thích có bóng mát. Trong khu nuôi nên có nhiều cây.

Chúng ta nên bố trí trồng cây trong khu vực nuôi dông. Qua thực tế cây trứng cá là cây nên trồng nhất. cây trứng các mọc rất nhanh, chịu được nóng, được hạn, tán rộng, cây cao vừa phải và quả của chúng lại là món khoái khẩu của dông. Ta không nên trồng quá dày. Tán cây chỉ nên che 1/2 – 1/3 diên tích khu nuôi. Diện tích còn lại để cho dông sưởi nắng. Cũng có khu vực rất khó trồng cây do đất nghèo kiệt hoặc quá khô hạn, cây trồng không lên được hoặc lên rất chậm. trong tường hợp này ta nên căng một số bạt để che nắng. cũng có thể làm giàn để phủ lá hoặc lót cot lên trên. Cũng có thể xếp các cành cây khô thành đống để dông đào hang xuống chỗ đó. Đám cành lá này cũng là chỗ để dông con chạy trốn khi bị dông lớn đuổi.

Như vậy dông vẫn có khu vực bóng mát nhân tạo. Nếu nuôi trong khu nào có trồng khoai lang hoặc rau muống thì càng tốt, chúnh vừa làm thức ăn vừa làm bóng mát môi trường cho dông. Trong khu nuôi cần bố trí nhiều chỗ cho dông ăn. Dông tham ăn và thường tranh giành lẫn nhau. Dông lớn thường bắt nạt dông bé. Nếu ta bố trí nhiều chỗ đổ thức ăn thì dông bé cũng có thể ăn được. chỗ để thức ăn có thể là một miếng gỗ, một tấm nilon, một mãng phibro xi măng vỡ hoặc mấy viên gạch gắn lại cho vuông và bằng phẳng,…

Tùy từng điều kiện mà chúng ta có cách bố trí cho dông ăn cho hợp lý. Dông không đòi hỏi nhiều nước vì ngay trong thức ăn đã có đủ nước rồi. Tuy nhiên ta vẫn nên bố trí dụng cụ đựng nước để cho dông uống. Ta cũng có thể dùng các loại chai nhựa có khoan một lỗ thủng ở cổ chai, cho nước vào đầy chai và lộn ngược lại để trong một chén miệng hẹp để hạn chế việc bốc hơi nước. Vào mùa nắng, nên xịt nước vào chuồng vào mỗi buổi sáng để tạo độ ẩm và nhằm tạo thói quen cho dông lên ăn khi trời mưa. Thông thường, dông chỉ lên kiếm ăn vào khoảng 8-10 giờ sáng trong ngày.

Thức ăn

Nguồn thức ăn chủ yếu là thức ăn thực vật: các loại rau, quả như rau muống, rau lang, cà chua, dưa hồng, lá, hoa, nụ, quả. .. Đặc biệt, chồi non xương rồng và cỏ dại được xem là món “khoái khẩu” nhất của dông:, . . . dông còn ăn côn trùng (bướm, sâu non, giun đất…), trứng của loài bọ cánh cứng.

Ngoài ra, còn cho dông ăn cám gạo, cám hỗn hợp và các loại đậu… cho ăn đầy đủ các loại thức ăn để cung cấp dinh dưỡng cho dông. Rõ ràng nguồn thức ăn để nuôi dông dễ kiếm hơn rất nhiều so với các loài vật nuôi khác.

Tuy nhiên để nuôi đạt năng suất cao ta cần tăng cường các loại thức ăn giàu chất dinh dưỡng cho chúng. Nhiều gia đình thường thái cây chuối trộn với cám gạo cho dông ăn. ở những vùng có sẵn bí đỏ người ta băn bí đỏ ra cho chúng ăn. Nếu có lạc lép, hoặc đậu thứ phẩm, ta ngâm nước cho trương nở và giả nhỏ ra. Dông ăn loại này rất mau lớn. Tất cả nguồn thức ăn động vật đều hấp dẫn đối với dông. Cần băm nhỏ thức ăn ra để tiện cho dông ăn. Dông cũng thích ăn giun đất (trùn đất). Chúng ta nên tổ chức nuôi trùn quế để cung cấp thức ăn cho dông.

Ngoài ra cơm nguội và các thức ăn thừa của con người đều có thể cho dông ăn. Đặc biệt dông rất thích ăn các loại thức ăn có màu sắc, vị ngọt như cà chua, đu đủ, dưa hấu, xoài. Cà rốt, bí đỏ,… và các loại hoa như hoa phượng, hoa dâm bụt, hoa giấy,…

Thức ăn dông rất phong phú. Tuy nhiên để cung cấp với số lượng lớn và đều đặn hàng ngày, chúng ta nên có kế hoạch gieo trồng, nuôi cấy và tích lũy thức ăn khi tổ chức nuôi dông. Trước màu đông dong thường thu thức ăn về để ở dưới hang. Nó sẽ ăn dần trong mùa đông. Khi ăn hết thức ăn nó sẽ gặm cả đuôi của nó. Nhiều con cụt hết đuôi. Đến muà ấm nó ngoi lên và đi kiếm thức ăn. Cái đuôi cụt mọc dài dần ra như cũ.

Chăm sóc

Nuôi dông không tốn nhiều công chăm sóc. Điều cần thiết chính là khâu bảo vệ. phải ngăn chặ mọi ngã mà dông có thể tẩu thoát. Phải xây kín hoặc giăng lưới cẩn thận để tránh chúng lẻn đi. Khoảng cách giữa cây trong khu nuôi và bờ tường đạt ít nhất là 3m. Dông có thể leo lên cây và nhãy qua tường để ra ngoài.

Quá trình chọn lọc tự nhiên trên vùng khí hậu khốc liệt đã tạo ra con dông có tính thích ứng cao. Chúng rất ít bị bệnh tật đe dọa. Tuy nhiên do nuôi nhiều và tập trung nên chúng ta cần phải luôn chú ý đến những biểu hiện bệnh lý của con dông.

Hiện nay hiện tượng dông lớn cắn dông bé là vấn đề hằng ngày. Ta phải tìm mọi cách để phòng tránh. Dông là loài sống ở các vùng đất khô hạn nhưng khả năng chịu nắng của dông cũng có hạn. Nếu ta để dông mắc lưới (khi thu hoạch) mà không kịp gỡ chân cho chúng thì chỉ cần 2 giờ sau chúng có thể chết. Đây là điều hết sức lưu ý đặc biệt là các khu nuôi rộng. Việc trồng cây và tạo độ ẩm thích hợp cho khu vực tổ chức nuôi là việc cần quan tâm thường xuyên. Cố gắng đừng để tình trạng khu nuôi rơi vào tình trạng quá khô hạn, quá nắng nóng. Ngay từ khâu lựa chọn chỗ nuôi ta cần phải tính toán vấn đề này.

Kẻ thù của dông không phải là ít. Ngoài chim diều hâu còn có chó, mèo, chuột. Để chống mèo chuột người ta thường giăng lưới nilon (loại lưới dùng để bắt cá) dọc theo bờ tường và căng về phía trong khoảng 2m. mèo và chuột rất sợ rơi vào loại lưới này vì chúng không đi được. Phải thường xuyên theo dõi xử lý các trường hợp xãy ra. Giữ cho môi trường nuôi dông được yên tĩnh và bình an là cả một vấn đề quyết định, vì vậy không thể lơ là.

Sinh trưởng và hiện tượng lột xác của dông cát

– Sinh trưởng :

Dông sinh trưởng nhanh, mau lớn và rất ít bị dịch bệnh nên không cần chăm sóc nhiều (chỉ đề phòng mèo, chuột cống và rắn). Hiện nay một số người nuôi dông có phát hiện dông thường bị bệnh sổ mủi vào mùa lạnh nhưng tự khỏi. Tỷ lệ sống của dông khá cao, đạt từ 90-95%..

– Lột xác:

Lột xác là một hoạt động sinh lý bình thường và cần thiết cho quá trình phát triển của cơ thể dông. Thậm chí lột xác còn là một chỉ tiêu quan trọng biểu thị trạng thái sức khỏe của dông. Dông muốn lớn phải lột xác. Chúng lột xác nhiều lần trong năm. Đặc biệt vào mùa hoạt động dông lột xác liên tục. Lúc đó chúng ăn khỏe và lớn nhanh.

Trong điều kiện tự nhiên, các nhà khoa học đã xác định được tần suất lột xác ở dông cát trung bình là: Con cái: 7.83 lần/mùa hoạt động Con đực:8.15 lần/mùa hoạt động Quá trình lột xác diễn ra trong 3 giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những biểu hiện khác nhau.

a) Thời kỳ chuẩn bị lột xác (3-6 ngày):

Lúc này da chúng ở 2 bên sườn, ở các chấm ô van trên lưng và ở cổ có màu vàng cam. Mặt trên của các chi cũng sẽ chuyển sang màu vàng đậm. Phần da màu trắng xám dưới bụng, dưới chi và đuôi sẽ chuyển màu xám tối. Dông uể oải, ít ăn, ít hoạt động (mỗi ngày nó chỉ ra ngoài 1-2 giờ). Nó nằm lì trong hang. Cũng lúc này dông có mùi hôi đặc biệt. Mùi đó giống mùi động vật bắt đầu thối rửa.

b). Thời kỳ lột xác chính thức: (7- 10 ngày).

Lúc này dông sẽ bỏ lớp vỏ da cũ để thay bằng một lớp mới. Dông sẽ chui ra khỏi hang tìm nơi thuận lợi để lột xác. Nó tìm thấy gốc cây, mõm đá, bờ tường, nền đất cứng,… chà mạnh đầu, cổ. Lưng và vùng bụng vào đó để da bong ra từng mãng tại chỗ nó cà. Sau đó phần da ở nách, ở các ngón chân cũng dần dần bong ra. Thứ tự sẽ lột là: – Lột xác phần đầu – Lột xác phần thân – Lột xác nốt phần thân và phần đuôi.

c). Thời kỳ sau khi lột xác: (20-31 ngày)

Thời gian này được tính từ lúc hoàn thành lần lột xác trước đến lần lột xác tiếp theo. Sau khi lột da xong, da của nó bóng đen, các hoa văn ở cổ, đầu , lưng và hai bên sườn đều có màu vàng cam. Điều này quan sát thấy rõ ở con đực. Phần da dưới bụng của chúng sẽ chuyển sang màu sáng trắng. Dông đi kiếm ăn ngay, nó ăn khỏe và hoạt động rất sôi nổi.

Tóm lại ta có thể thấy toàn bộ chu kỳ lột xác của dông cát kéo dài từ 30-45 ngày. Nó thường lột xác vào khoảng tháng 4 đến tháng 11. lúc đó nhiệt độ thường là 28-330C và độ ẩm không khí từ 80-85%. Dông sẽ lột xác 7-8 lần/năm. Vào thời điểm ngủ đông dông cát không lột xác

Sinh sản

Theo các nhà khoa học hầu hết các loài dông cái đều đẻ trứng, trứng nở ra dông con. Riêng loài dông được phát hiện ở khu vực Thừa Thiên Huế (loài Leiolepisguentherpetersi) có thể là loài sinh trinh (parthonogenecis) (tất cả đều là cá thể cái và tự phân li trứng khi đẻ). Dông sau khi nuôi 8 – 10 tháng thì đến tuổi động dục có thể sinh sản. Dông thường cặp đôi vào mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 6) và đẻ trứng vào tháng 6 đến tháng 8. Thời gian mang thai 10 ngày. Dông đẻ nhiều lứa một năm, mỗi lần đẻ từ 6-8 trứng. Trứng dông có hình thuôn dài (dài từ 2,2cm -2,4cm, rộng 1,1cm -1,3 cm, nặng khoảng 3 g), 45 ngày sau trứng nở ra dông con, Dông con mới nở thân hình màu trắng dợt, sống quanh quẩn dưới hang trong một vài ngày đầu. Khi bộ chân đã cứng cáp, chúng theo dông mẹ chui ra khỏi hang và tập nhấm nháp thức ăn.

Độ 1 tháng tuổi dông đã bằng ngón tay cái, đến hai tháng tuổi dông đã bằng ngón chân cái và có thể xuất chuồng bán giống. Dông lớn nhanh vào các tháng từ tháng 6 đến tháng 8. Đây là thời kỳ thuận lợi nhất cho hoạt động của dông cát. Tới khi trưởng thành tốc độ lớn của nó chậm hơn còn non.. Đến năm kế tiếp, đàn dông con trưởng thành và lại tiếp tục sinh sản

Thu hoạch

Sau khi nuôi 8-10 tháng là thời điểm thu hoạch dông. Ta cũng có thể bắt dông bằng lưới. Dùng lưới có mắt nhỏ và rải đều xuống mặt đất, sau đó ta rải thức ăn xung quanh, dông kéo ra ăn. Lúc đã thấy chúng ra hết ta gây tiếng động mạnh. Dông cuống quýt bỏ chạy. Vì vội vã, chúng sẽ mắc chân vào lưới. Ta gỡ và thu những con dông lớn. Các con nhỏ cũng gỡ ngay và thả chúng lại trong hang. Tránh để sót con bị mắc lưới.

Vì nếunhư vậy chỉ 2-3 giờ sau chúng chết vì say nắng, nóng. Cần hết sức lưu ý điều này. Tốt nhất ta nên dùng nhiều bẫy để bắt dông. Đó là cách bắt dông tốt nhất và an toàn nhất. Việc vận chuyển dông đi xa cần phải đựng trong các lồng thoáng, không nên để chúng trong các túi vải kín, dông sẽ chết.

Kĩ thuật bắt Dông

Đang chạy như bay thì dừng lại, đầu ngóc lên cao nhìn ngang nhìn dọc chừng như để nghe ngóng động tĩnh gì, hay để tìm kiếm có bụi cây, đám cỏ nào quanh đó để kiếm ăn…

Trong trường hợp gặp nguy khốn, như phát hiện có người từ xa đi đến thì nó liền cắm đầu phóng một mạch như tên bắn để thoát nạn.

Với con vật có tài chạy nhanh như vậy, thử hỏi muốn bắt nó chúng ta phải làm cách nào?

Từ xa xưa, ông cha ta đã có nhiều cách để bắt Dông: Đào hang mà bắt Dông sống trong hang, thường mỗi con một hang. Hang chúng đào trong cát, khá sâu, bề dài từ mét rưỡi đến hai mét. Nhờ miệng hang lộ trên mặt cát nên cũng dễ tìm. Nói cách khác, muốn bắt Dông theo cách này, việc đầu tiên là phải tìm cho ra cái hang chúng ở.

Đào hang Dông không khó, trong tay chỉ cần một thứ dụng cụ thô sơ như cái bay thợ hồ hay một con dao phay cùn cũng được. Vì là đất cát nên dễ đào và đào nhanh. Tính con Dông nhút nhát, hễ nó nghe có tiếng động mạnh trên miệng hang là sợ hãi chui sâu xuống tận đáy hang mà ẩn mình.

Khi đào gần đến đáy hang, ta chỉ cần nhanh tay chụp một cái là bắt được con Dông dưới đó. Việc đó không khó khăn gì và cũng không nguy hiểm gì, vì Dông không hề cắn mổ ai.

Một người có kinh nghiệm đào hang bắt Dông lâu năm, một ngàỹ họ dư sức đào được khoảng 50 hang. Trong trường hợp có thêm người phụ giúp tìm hang thì người đào hang nếu siêng có thể đào được bảy tám chục cái mỗi ngày.

Trong vùng rẫy bái có Dông sinh sống, những người có tiếng đào hang nhiều kinh nghiệm này không sợ bị., thất nghiệp trong những tháng vào mùa vụ, vì được các chủ nương rẫy giàu có đến thuê mướn với mức lương cao.

Đặt bẫy mà bắt

Bẫy Dông là một đoạn ống tre dài chừng lOcm, miệng ống sao cho vừa vặn với miệng hang Dông là được. Bộ phận của bẫy còn có một cái cần dài non một mét cũng làm bằng một thanh tre vót đầu to đầu nhỏ như cái cần câu cắm, và một đoạn dây cước bền chắc để thắt nút thòng lọng.

Khi gài bẫy, người ta gắn một đầu đoạn ống tre vào miệng hang; cây cần thì đầu to cắm chắc xuống đất, đầu nhỏ cột một đầu dây cước. Đầu dây cước còn lại thì thắt nút thòng lọng đặt nằm khít bên trong ống tre. Cây cần sau đó được uốn cong vòng cuống nhờ một miếng ván nhỏ làm “lưỡi gà” giữ chận lại khiến đầu cần không bật thẳng lên được.

Đến giờ đi kiếm ăn, con Dông ló đầu lên cửa hang nó lầm tưởng đoạn ống tre vẫn là hang của nó nên bình thản chui qua. Nhiửig, lúc đó nó đã đạp trúng miếng ván “lưỡi gà” khiến cái cần bật thẳng lên, đồng thời cái vòng thòng lọng ác nghiệt cũng thắt chặt vào cổ làm con Dông mắc kẹt, thân mình treo lủng lẳng không còn cách nào thoát thân được….

Bắt Dông theo cáeh này thì từ lúc tờ mờ sáng ta đã đi đặt bẫy ở mỗi cửa hang, và chờ đến giờ Dông đi ăn một hồi ta mới bắt đầu đi thăm bẫy. Hễ dính được con nào thì đến gỡ ra, sau đó bẻ gãy xương sống cho Dông khỏi chạy được rồi cột thành xâu hay bỏ giỏ mang về.

Bắt Dông bằng lưới

Với Dông hoang dã thì không thể bắt được chúng theo cách này, vì đâu có tấm lưới nào đủ dài dể mong chận được hết các nẻo di về của chúng. Chi Dông nuôi chuồng, nhất là chuồng có diện tích hẹp ta mới dùng lưới để bắt chúng.

Với chuồng có diện tích hẹp thì giăng lưới vào một góc nào đó rồi xua Dông chạy về hướng có lưới mà bắt. Lưới bắt Dông có hình thức như lưới cá, có mắt lưới to đủ để Dông chui đầu qua., và mắc kẹt lại.

Ngoài những cách bắt Dông thông dụng vừa kể, còn có một cách bắt Dông khác là dùng thuốc độc dể tiêu diệt chúng. Thứ thuốc độc được sử dụng thông thường là phôt phuya kẽm (Phosphure de Zinc). Nhưng Dông chết vì ngộ độc thuốc nầy thịt nó không thể án được. Tốt nhất là không nên dùng.

Kẻ thù của Dông

Nó được coi là miêng mồi ngon của các loài chồn cáo, rắn, kỳ đà, mèo hoang, chuột cống và những giông chim ăn thịt.

Chính vì bị những kẻ thù này ngày đêm rình rập, săn đuổi để giêt hại nên tính Dông vốn nhút nhát lại càng… nhát hơn thỏ đế. Lúc nào chúng cũng phải đề cao cảnh giấc cao độ, và khi gặp nguy thì chỉ biết mỗi một cách là chạy thục mạng về hang ẩn trốn mà thôi.

Với Dông nuôi nhốt trong chuồng, do được chủ nuôi chăm nom và có chuồng nuôi với tường rào cao bảo vệ nên số kẻ thù của Dông không còn nhiều. Thường chỉ có lũ mèo nhà và bầy chuột cống là đáng sợ nhất.

Trong việc chọn cuộc đất lập chuồng nuôi Dông, những người có kinh nghiệm đã khuyên nên chọn cuộc đất cao ráo và xa khu vực dân cư sinh sống để tránh nạn mèo (mèo nhà) và chuột cống xâm nhập vào chuồng giết hại Dông nuôi.

Lời khuyến cáo nầy thiết nghĩ không phải là vô bổ, vì rằng chỉ có khu dân cư sinh sống mới có nhiều lũ mèo chuột nầy…

Mèo

Sở thích của loài mèo là bắt chim chuột, thằn lằn cắc ké, và cả cóc nhái nữa. Nói chung con thú nào mà ưa tung tăng chạy nhảy trứoc mặt là mèo thích phóng tới vồ chụp cho bằng được. Nhiều khi mèo bắt được chuột chỉ để giỡn cho chết chứ mục đích không phải để ăn. Con Dông cũng nằm trong tầm ngắm của mèo. Hễ thấy Dông hoang chạy ngoài bãi cát, mèo cũng cố rượt theo đến tận hang ổ mà bắt, có khi ăn có khi., bỏ xác đó mà đi.

Mèo lại có biệt tài leo trèo, nhảy xa, phóng cao nên chuồng Dông dù có tường rào cao cũng đâu trở ngại gì đối với nó. Nhất là bên trên chuồng lại trống trơn, không mái lợp nên mèo tha hồ vào ra lúc nào chẳng được. Mèo chỉ sợ có người phát giác ra chúng. Nhưng khi vắng bóng người canh giữ thì nó ung dung nhảy vàd chuồng Dông mặc sức sát hại…

Muốn trừ nạn mèo nhà vào chuồng sát hại Dông Ịiuôi, ta chỉ có cách đặt nhiều bẫy bên ngoài quanh khu yực tường rào, và cả trên mái nhà đầu tường, ngoài việc gặp đâu ỉà xua đuổi đó…

Chuột Cống

Chuột cống có thân mình to lớn, khi đói dám vào chuồng bắt gà con, vịt con to bằng nắm tay để ăn thịt. Nó cũng thừa sức vật chết những con Dông to bằng cườm tay một cách dễ dàng. Con mồi chết, chuột xé xác ăn dần… Có khi vài ba con xúm lại ăn cho đến hết.

Chuột cống cũng có tài leo trèo nên nó vào chuồng Dông không mấy khó khân. Nó không đủ tài “đào ngạch khoét vách vì chuồng nuôi Dông có giàn móng kiên cố, nhưng có thể leo tới đầu tường rào, và từ đó phóng mình xuống nền chuồng.

Chuột cống nhập vào bên trong chuồng thì dễ, nhưng khi muốn thoát ra khỏi chuồng lại không dễ dàng gì. Vì nếu có leo lên đến đầu tường thì dễ bị mái tôn láng gie ra ngăn lại. Do lẽ đó và cũng tai hại từ đó, chuột cống phải ở lại trong chuồng và sinh sôi nẩy nở thành bầy đàn đông đảo:

Chuột cống khi dã lọt vào chuồng thì chúng lại đào hang để sông nên việc bài trừ tuyệt diệt được chúng chuyện vô cùng khó khăn, vừa tốn nhiều thời gian lẫn công sức.

Tai hại hơn nữa là chuột cống do không ăn được thức ăn của Dông nên chúng chỉ còn cách tìm đến các hang Dông, cố đào bới để xâm nhập vào tận đáy dể gặp trứng ăn trứng, gặp Dông con ăn Dông con, và gặp Dông lớn thì cắn cổ lôi ra ngoài…

Muốn trừ chuột cống phải trừ ngay từ dầu, bằng đủ mọi cách như:

  • Phát quang quanh khu vực chuồng nuôi theo định kỳ để tìm hết hang chuột mà diệt trừ.
  • Đặt bẫy hàng đêm quanh khu vực chuồng nuôi Dông, và cả trên đầu tường rào.
  • Tìm hang chuột cống bên trong khu vực nuôi để giết chết chúng…
  • Xua đuổi chim ăn thịt: Ngoài nạn mèo và chuột cống giết hại Dông nuôi ra, ta cũng chú ý đến những giống chim ăn thịt như chim cắt, Diều hâu; các loài chim dữ này trước khi sà xuống bắt Dông chúng phải bay lượn trên không trung nhiều vòng để quan sát trước con mồi (như Diều hâu), hoặc núp trên cây rình rập (như chim cắt). Có điều những con chim này lại rất sợ người, nên nếu ta cắt người thay phiên nhau canh giữ thì chúng cũng không dám bén mảng tới…

Tóm lại, kẻ thù của Dông nuôi không nhiều, nhưng chúng đều gây nguy hại cho vật nuôi nền ta phải thẳng tay diệt trừ chúng bằng đủ mọi cách. Có làm được như vậy thì việc nuôi Dông của ta mới gặt hái được thành cõng.

Bài viết liên quan

Bài viết cùng chuyên mục

Exit mobile version