Cây trưởng thành có thể đạt chiều cao tới 25-30m, đường kính thân đến 60cm, cũng có thể gặp một số cây cao tới trên 40m với đường kính thân đạt 1,0 -1,5m.
TRÀM ÚC
Tên khác: Tràm lơca, Tràm lá dài
Tên khoa học: Melaleuca leucadendra L.
Họ thực vật: Sim (Myrtaceae)
(Nguồn chính: Nguyễn Việt Cường, 2010)
1. Đặc điểm hình thái
Cây trưởng thành có thể đạt chiều cao tới 25-30m, đường kính thân đến 60cm, cũng có thể gặp một số cây cao tới trên 40m với đường kính thân đạt 1,0 -1,5m.
Vỏ cây có màu trắng, nhẵn, mền và mịn, bong thành từng mảng lớn.
Lá hình ngọn giáo, thuôn dài và hơi cong. Lá dài trung bình 10-20cm rộng trung bình 2,0-3,5cm, mỏng và mịn, có lông tơ khi non.
Hoa mọc thành chùm dài, chiều dài 6-15cm, mọc 1-3 chùm kế tiếp nhau ở đầu cành hoặc thành một chùm đơn ở nách lá, hoa màu trắng hoặc trắng ngà. Quả hình cầu hoặc hình trụ ngắn, rộng khoảng 0,3-0,45cm cao 0,4-0,45cm, vách quả mỏng, khi chín và khô nứt miệng quả mở rộng ở phía đỉnh, quả có thể tồn tại một thời gian trên cây mẹ. Hạt nẩy mầm nhanh.
2. Đặc tính sinh thái
Tràm lá dài phân bố tự nhiên ở Úc, từ 12 đến 23,5o vĩ Nam và từ 113o đến 152o kinh Đông. Ngoài ra còn cón có mặt ở Papua Niu Ghinê và đảo Irian Jaya của Inđônêxia.
Khí hậu vùng phân bố tự nhiên của Tràm lá dài thuộc dạng ẩm, bán ẩm, nóng – bán khô hạn. Nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất 31-38oC và tháng lạnh nhất 8,5-19oC, lượng mưa trung bình năm 650-1500mm với số ngày mưa 40-145 ngày/năm.
Tràm lá dài mọc chủ yếu trên các địa hình phẳng và dốc nhẹ, đặc biệt là các bãi ven sông, các dải đất bằng ven biển hoặc các đầm lầy theo mùa. Tràm lá dài ưa mọc trên đất phù sa, đất sét bùn hoặc đất cát bùn lầy. Hiếm khi tràm mọc trên đất thiếu hụt nước.
Tràm lá dài mọc thuần loại thành từng đám nhỏ trong các khu rừng mưa nhiệt đới, dạng rừng thưa hỗn loại. Tại đây Tràm lá dài là loài cây ưu thế về cả số lượng cá thể cũng như kích thước cây. Các loài hỗn giao với Tràm lá dài thường là các loài tràm M. argentea, M. dealbata và bạch đàn là E. alba, E. tereticornis, E. polycarpa.
3. Giống và tạo cây con
Áp dụng tiêu chuẩn ngành 04TCN-145-2006 – quy trình kỹ thuật trồng Tràm lá dài của Bộ NN&PTNT.
Ưu tiên sử dụng hạt giống được thu hái ở các rừng giống, vườn giống, đặc biệt chọn vật liệu giống ở các xuất xứ đã được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật gồm xuất xứ 14147, 15892, 18909, 18958, 18960, 18961 để nhân giống phục vụ trồng rừng.
Thu hái hạt giống từ các cây ưu trội đã được 5-6 tuổi, chỉ thu hái hạt vào mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau. Sàng sẩy loại bỏ hết tạp vật và chỉ thu lấy hạt bung ra sau khi phơi được 2 ngày đầu. Số lượng hạt trong 1kg là 20-22 triệu hạt.
Hạt được cho hạt vào túi vải hoặc ni lông hay chum vại cất giữ nơi cao ráo, thoáng mát. Hoặc có thể cất trữ hạt ở nhiệt độ 5 đến 100C với hàm lượng nước của hạt từ 5 đến 12% có thể duy trì được khả năng nẩy mầm tới 3 năm.
Xử lý hạt nẩy mầm có thể theo 1 trong 4 cách sau:
- Ngâm hạt trong nước sạch khoảng 12 giờ liền, vớt ra để ráo nước đem gieo.
- Ngâm hạt trong nước sạch, ấm khoảng 40-500C, trong 6 giờ vớt ra để ráo nước đem gieo.
- Phơi hạt dưới nắng nhẹ khoảng 600C trong 6 giờ rồi đem gieo.
- Phơi hạt dưới nắng nhẹ khoảng 600C trong 2 giờ sau đó ngâm vào nước 3 giờ, vớt ra để ráo nước rồi ủ hạt 36-48 giờ, cứ 10-12 giờ rửa chua một lần, rửa lần cuối để ráo nước đem gieo.
Khi gieo hạt cần cày hoặc cuốc đất phơi khô đập nhỏ cho tới mịn, loại bỏ các tạp vật và các loại đất đá có kích cỡ lớn hơn 0,5 cm, lên luống và san phẳng mặt luống. Sau đó trộn một phần hạt đã xử lý với 5 phần cát mịn rồi gieo vãi đều lên mặt luống với 2g hạt/m2. Tiếp theo là tưới nước đủ ẩm và phủ một lớp cát mỏng, lấp kín hạt sau khi gieo. Làm khung đỡ và chuẩn bị ni lông che mặt luống khi có mưa lớn để bảo vệ cây mạ.
Chăm sóc cây mạ: Hàng ngày tưới nước đủ ẩm cho luống cây gieo, 7 đến 10 ngày làm cỏ phá váng cho cây một lần
Tạo bầu: Vỏ bầu làm bằng P.E có kích thước 9x12cm thủng đáy, nếu có đáy thì cắt 2 góc và đục 4 lỗ ở thành vỏ bầu. Ruột bầu tuỳ điều kiện được sử dụng một trong các loại hỗn hợp tính theo % khối lượng như sau:
- Ở nơi có rừng Tràm: 50% đất rừng tràm với 40% cát hoặc 40% tro trấu và 10% phân chuồng hoai (tỷ lệ 5:4:1).
- Ở nơi không có rừng Tràm: 25% đất vườn ươm + 25% phân chuồng hoai + 50% xơ dừa hoặc tro trấu (tỷ lệ 1:1:2) hoặc 50% đất vườn ươm + 25% phân chuồng hoai + 25% xơ dừa hoặc tro trấu (tỷ lệ 2:1:1).
Cấy cây mạ: Cây mạ đã được 25-30 ngày tuổi kể từ khi hạt nẩy mầm, cao khoảng 2-3cm và có khoảng 3 đến 4 đôi lá thì nhổ đem cấy vào bầu.
Chăm sóc cây con: Sau khi cấy 4-5 ngày cây bắt đầu cứng cáp tiếp tục tưới nước đủ ẩm cho cây và tháo dỡ dàn hoặc lưới che nắng.
Tiêu chuẩn cây con đem trồng:
Tuổi cây 8-10 tuần (2,5-3 tháng) kể từ khi cấy hoặc 12-14 tuần (3,5-4 tháng) kể từ khi nẩy mầm; chiều cao cây 40-50cm (đối với vùng trồng là các lòng hồ ngập nước theo mùa thì chiều cao cây là 80-90cm); đường kính cổ rễ 0,2-0,3cm
4. Trồng và chăm sóc rừng
Mật độ trồng:
- Lập địa đất phèn ngập 4-5 tháng trong năm, trồng 6.660 cây/ha đến 10.000 cây/ha, cự ly 1 x 1,5 m hay 1×1,0m.
- Lập địa đất cát, lầy, bồi tụ bán ngập theo mùa, trồng 6.660 cây/ha, cự ly 1×1,5m.
- Lập địa đất vàng đỏ, đất cát không ngập, trồng 2.500-3.300c/ha, cự ly 2x2m hay 1,5m x 2m.
Xử lý thực bì:
- Nơi có thực bì thưa thớt không cần xử lý. Nơi có thực bì dày rậm phát toàn diện sát gốc, dọn tươi hoặc đốt có kiểm soát.
Làm đất:
Lập địa đất phèn lên liếp theo kích cỡ như sau: Liếp rộng từ 2-5m, cao 0,25m, rãnh rộng 0,6-1m, sâu 0,5m (không chạm tới tầng sinh phèn). Lên liếp bằng thủ công, hoặc máy và làm theo cách cuốn chiếu bằng cách cào lớp đất mặt của rãnh ra một bên, đào lớp đất dưới của rãnh đắp lên lớp đất mặt của liếp, sau đó đào lớp đất mặt của rãnh đắp phủ lên mặt liếp. Cuốc hố kích thước 30x30x30cm kết hợp bón lót hỗn hợp phân DAP, NPK và lân supe hoặc âptit nghiền theo tỷ lệ 1:1:6 (NPK 4:57:1), lượng bón 30g cho 1 cây.
Lập địa đất bồi tụ cát, lầy, ven sông hồ lên liếp rộng 1m cao 0,20 – 0,30m; rãnh rộng 0,5m sâu 0,2-0,3m. Bón lót 200-300g NPK (5:10:3 hoặc tương đương) cho một hố.
Lập địa đất đồi gò hay đất cát không ngập nước, hố được cuốc kích thước 40x40x40cm theo đường đồng mức, kết hợp bón lót 250-300g NPK (5:10:3 hoặc tương đương) hay 300-500g phân hữu cơ vi sinh cho 1 hố. Thời gian cuốc hố, bón lót và lấp hố phải hoàn thành trước khi trồng ít nhất là 1 tháng.
Thời vụ trồng:
Ở vùng đất ngập phèn trồng từ tháng 7 đến tháng 12 dương lịch, tuỳ từng địa phương xác định thời điểm bắt đầu để kết thúc trồng vào lúc mức nước không ngập quá ngọn cây và hoàn thành trước khi nước rút cạn ít nhất 15 ngày.
Các vùng đất ngập nước theo mùa ở các lòng hồ nên trồng trước mùa nước ngập từ 1 tháng trở lên.
Ở các vùng khác trồng vào đầu mùa mưa đến giữa mùa mưa, vụ xuân hè ở những nơi mùa mưa bắt đầu chậm có thể trồng vào vụ thu.
Cách trồng:
Dùng cuốc hoặc tay tạo 1 lỗ ở giữa hố vừa đủ đặt bầu cây có chiều sâu cao hơn chiều cao của túi 1-2cm. Rạch bỏ vỏ bầu, đặt bầu cây ngay ngắn trong lòng hố, lấp đất mịn và lèn chặt, vun đất quanh gốc cây cao hơn mặt hố 5-10cm. Chăm sóc:
Thời gian chăm sóc 3 năm liền bằng các biện pháp như sau:
Năm thứ 1: Sau khi trồng 20-30 ngày kiểm tra tỷ lệ sống và trồng dặm
Nơi trồng vụ Xuân Hè chăm sóc 2 lần: Lần đầu sau khi trồng 2 tháng xới xáo đất quanh gốc cây đường kính rộng 0,8m, lần thứ 2 vào mùa khô phát bỏ cây cỏ xâm lấn, xới xáo đất quanh gốc đường kính rộng 1m.
Nơi trồng vụ thu đông chỉ chăm sóc 1 lần vào đầu mùa khô, phát bỏ cây cỏ xâm lấn, xới xáo đất quanh gốc đường kính rộng 1m.
Năm thứ 2 và 3: Chăm sóc 2 lần/ năm vào đầu và cuối mùa mưa. Nội dung chăm sóc là phát luỗng cây cỏ xâm lấn và vun xới quanh gốc đường kính rộng 1m.
Kết hợp lần chăm sóc vào cuối mùa mưa (đầu mùa khô), thu dọn đưa vật liệu cháy ra khỏi rừng đề phòng chống cháy rừng.
Bảo vệ rừng:
– Phòng chống sâu, chuột phá hoại rừng:
Thường xuyên theo dõi tình hình sâu đục thân và chuột cắn phá hoại rừng, khi thấy xuất hiện phải bắt giết hoặc phun diệt tận gốc không để chuột và sâu phát triển thành dịch.
– Phòng chống lửa rừng:
Áp dụng tiêu chuẩn ngành 04TCN-88-2006 – quy phạm kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy rừng tram của Bộ NN&PTNT, đặc biệt chú ý:
Phải có chòi canh và tổ chức trực gác suốt mùa khô ở nơi trồng tràm tập trung, có diện tích lớn để theo dõi phát hiện và ngăn chặn cháy rừng một cách kịp thời.
Phải tích giữ nước lại trong các kênh mương vào mùa khô để chống cháy nơi trồng tràm tập trung có diện tích lớn tại các vùng bán ngập hoặc ngập theo mùa.
Phải thực hiện phát dọn thực bì đưa ra khỏi rừng hoặc đốt có kiểm soát vào trước mùa khô và ngăn cấm tuyệt đối không cho mang lửa vào rừng, đặc biệt là trong mùa khô.
5. Khai thác, sử dụng
Gỗ tràm không chỉ dùng để làm cừ phục vụ xây dựng mà còn có khả năng cung cấp nguyên liệu làm giấy, dăm và các loại ván nhân tạo cũng như gỗ vừa để làm đồ mộc. Gỗ Tràm lá dài có tỷ trọng từ 733 đến 749kg/m3, chịu nước và nấm mục khá.
Ngoài ra còn cung cấp có tinh dầu và các sản phẩm khác như mật ong, nấm tràm, vỏ tràm, than tràm và các dịch chiết xuất thu được từ các lò hầm than.
Nếu kinh doanh gỗ nhỏ (cừ, giấy, dăm,…) chu kỳ 6-7 năm tỉa thưa một lần vào tuổi 4, cường độ tỉa thưa 45-60% số cây, tỉa vào mùa khô, thu dọn sản phẩm và vật liệu cháy ra khỏi rừng. Áp dụng cách tỉa cơ giới kết hợp với chọn lọc những cây sinh trưởng kém, sâu bệnh, cong queo, gẫy ngọn.
Nếu kinh doanh gỗ vừa (cột, ván ghép thanh, đồ mộc,…) kết hợp gỗ nhỏ chu kỳ 15-20 năm. Tỉa thưa 3 lần đối với mật độ 10.000 cây/ha:
- Lần 1: Tuổi 4, cường độ tỉa 45% số cây ở mật độ 10.000 cây/ha thì số cây để lại 6.500 cây/ha.
- Lần 2: Tuổi 8, cường độ tỉa 50% số cây còn lại ở tuổi 4, mật độ để lại là 3.250c/ha
- Lần 3: Tuổi 12, cường độ tỉa 50% số cây còn lại ở tuổi 8, mật độ để lại 1.625c/ha.
Tỉa thưa 2 lần đối với mật độ mật độ 6.660 cây/ha ở tuổi 8 và tuổi 12 cường độ tỉa thưa mỗi lần là 50% số cây.
Tỉa thưa 1 lần đối với mật độ 2500-3330 cây/ha ở tuổi 12 cường độ tỉa thưa là 35-50% số cây.
Nguồn: caygiong.org