Một số bệnh thường gặp ở cá Betta

Cần phải chẩn đoán bệnh một cách thật chính xác trước khi tiến hành chữa trị. Chúng ta có thể làm tình trạng của cá còn tệ hơn nữa nếu chữa không đúng bệnh.

Một số bệnh thường gặp ở cá Betta - mot so benh thuong gap o ca betta

1. Bệnh nấm thuỷ mi

– Tổng quan: đây là loại bệnh phổ biến và nó làm cá chết rất nhanh vì vậy việc phát hiện và chữa trị sớm là điều rất quan trọng. Mầm bệnh nấm vốn luôn hiện diện trong hồ. Cá thường nhiễm bệnh nấm sau khi bị yếu và mất sức đề kháng vì mắc một số bệnh trước đó hay bị thương.

– Chẩn đoán bệnh: cá thường có những búi màu trắng hay xám như cục bông gòn trên thân, vây hay mang. Bệnh nấm thường bị nhần lẫn với bệnh lở miệng (Columnaris). Lưu ý, khi quan sát thật kỹ chỗ bị bệnh nấm sẽ thấy các sợi nấm mọc ra như tóc trong khi bệnh lở miệng trông giống như cục bông gòn.

– Cách điều trị: cách ly cá bệnh để điều trị, không cần phải chữa trị toàn bộ hồ cá bởi vì mầm bệnh nấm luôn tồn tại trong hồ… và chỉ tấn công một khi cá bị suy yếu vì mắc một bệnh khác trước đó. Bạn có thể điều trị cho cá bằng malachite green, muối, tăng nhiệt độ, methylene blue, formalin hay hydrogen peroxide (dùng bôi trực tiếp lên vết nấm, cần hết sức cẩn thận không để thuốc dính vào mang cá vì nó có thể giết chết cá). Điều quan trọng nhất đó là xác định nguyên nhân làm cá đổ bệnh và giải quyết. Dù vì nguyên nhân nào, cá bị suy giảm hệ miễn dịch tạo cơ hôi để mầm bệnh tấn công. Điều này có thể gây ra bởi nước dơ, nồng độ ammonia tăng hay những nguyên nhân khác chẳng hạn bị cá dữ uy hiếp.

2. Bệnh đốm trắng (trùng quả dưa)

– Tổng quan: bệnh đốm trắng là ký sinh trùng trú ngụ ở bên dưới lớp da của cá. Chúng tạo ra các đốm trắng như hạt muối hay cát phủ đầy cơ thể cá. Cá có thể bơi giật cục và cố quẹt mình vào các vật thể trong hồ. Bệnh này có thể trở nên trầm trọng nhưng may mắn thay nó rất dễ chẩn đoán và chữa trị. Ký sinh trùng phát triển rất nhanh nên việc phát hiện bệnh và điều trị kịp thời là cực kỳ quan trọng. Cần hết sức lưu ý rằng cho dù những đốm trắng có biến mất thì không có nghĩa rằng mầm bệnh đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Chúng vẫn tiếp tục sống và tăng trưởng trong nước ngay cả khi rời khỏi mình cá. Đấy là lý do tại sao chúng ta cần tăng nhiệt độ của nước bởi nếu để nước lạnh thì phải mất nhiều tuần để chu trình sinh trưởng của ký sinh trùng được hoàn tất! Bạn nên điều trị liên tục cho cá tối thiểu một tuần để tiêu diệt hết mầm bệnh ký sinh (nếu để nước lạnh thì cần lâu hơn). Ký sinh trên mình cá rất khó tiêu diệt, thuốc chỉ có tác dụng ở giai đoạn ấu trùng trong chu trình sinh trưởng của ký sinh trùng, ngay khi vừa trưởng thành, chúng sẽ lập tức tấn công cá.

– Cách phòng: căng thẳng và giảm sức đề kháng là các nguyên nhân làm mầm bệnh tấn công và nhân rộng trên cá. Tránh làm cá bị căng thẳng bởi các nguyên nhân như nước dơ, nhiệt độ biến đổi đột ngột, ăn quá no… Cách ly cá mới và cây thuỷ sinh để đảm bảo rằng bạn không đem mầm bệnh từ bên ngoài vào hồ. Không nên thay đổi nhiệt độ hồ một cách đột ngột. Luôn bỏ túi đựng cá vào hồ mới khoảng 15 phút để nhiệt độ hai bên cân bằng trước khi thả cá. Nên nhớ rằng, cùng với chất lượng nước, đấy là những nguyên nhân rất phổ biến làm cho cá bị ký sinh trùng tấn công và gây bệnh.

– Cách điều trị: tăng nhiệt độ nước để rút ngắn chu trình sinh trưởng của ký sinh. Tắm nước muối là cách loại bỏ ký sinh hiệu quả. Nước muối làm ký sinh rời khỏi mình cá và rơi xuống hồ điều trị, vì vậy khi thả cá về hồ cũ thì ở đó không còn ký sinh nữa. Những hoá chất có chứa muối đồng như Coppersafe hay Aquarisol cũng điều trị rất hiệu quả. Có nhiều loại thuốc chuyên để chữa bệnh đốm trắng có thể tìm thấy trong các tiệm cá cảnh nhưng bạn nên nhớ rằng thuốc càng mạnh thì cá càng bị căng thẳng. Malachite green được khuyến cáo không nên sử dụng đối với cá da trơn như cá nheo, cá chạch và những cá khác như cá tetra. Điều trị 4 đợt, mỗi đợt kéo dài 3 – 4 ngày, thay khoảng 50% nước trước mỗi đợt điều trị. Tiếp tục điều trị trong hai tuần để đảm bảo rằng tất cả ký sinh đều bị tiêu diệt hết. Nên nhớ rằng, thuốc chỉ có tác dụng lên ấu trùng của ký sinh tức khoảng 3 ngày đầu tiên trong chu trình sinh trưởng của chúng.

* Lưu ý: ở Việt Nam, thuốc trị bệnh đốm trắng thông dụng là methylene blue. Có nhiều nhãn hiệu ở dạng viên và chất lỏng lưu hành trên thị trường. Nên đọc kỹ hướng dẫn tỷ lệ pha thuốc trước khi dùng vì nồng độ mỗi loại có thể khác nhau.

3. Bệnh xù mang

– Triệu chứng:
+ Tạm gọi bệnh này là “xù mang” vì vảy ở vùng mang cá bị bệnh này xù lên. Cá bệnh nặng, vùng vảy xù có dịch trắng như mủ, nếu khều ra sẽ bật máu.
+ Không rõ tác nhân gây bệnh là gì nhưng không phải là nấm.
+ Bệnh này lây rất mạnh và dai dẳng. Mình nuôi cá cả năm không hề thấy bệnh này cho đến khi một con cá mái Thái phát bệnh. Từ đó cá mình thường xuyên bị bệnh này, nhất là những con cá to. Có lẽ phải thay lọ nuôi mới và tẩy rửa toàn bộ lọ cũ để loại trừ mầm bệnh.
+ Bệnh diễn tiến chậm rãi. Cá bị xù mang vẫn ăn uống nhưng ngày càng ít đi, cá lờ đờ, nổi trên mặt nước và sau cùng bị chết.

– Cách phòng bệnh:
+ Cách ly và quan sát kỹ cá mới. Phát hiện và chữa trị cá bệnh càng sớm thì khả năng lành bệnh càng cao và nhanh (trong vòng 1 tuần).
+ Vệ sinh hồ cá bệnh kỹ lưỡng để tránh mầm bệnh lây lan (rửa bằng xà bông tiệt trùng).

– Cách điều trị:
+ Nhỏ thuốc hiệu RID PROTOZOAN (anh N2D mua bên Thái) với liều lượng 2 giọt/2 lít nước (lưu ý: liều lượng này gấp đôi liều lượng chỉ định ghi trên nhãn lọ thuốc là 1 giọt/2 lít).
+ Kết hợp ngâm thuốc với tetra Nhật (loại tetra này tan ngay trong nước, có bán ở các tiệm cá cảnh)
+ Chữa trị liên tục trong 2 – 3 tuần, sau mỗi tuần nên thay nước và giảm liều lượng thuốc còn 1 giọt/ 2 lít.
+ Nếu chỉ ngâm tetra mình thấy không tác dụng, cá sống nhưng tái phát bệnh sau khi ngưng ngâm thuốc. Anh N2D nói dùng tay khều hết vùng vảy xù (có khi bật máu) thì cá sẽ mau lành. Có lẽ các bạn nên làm theo cách này nếu chỉ ngâm tetra mà không có RID PROTOZOAN.
+ Bệnh có thể để lại di chứng trên mang: teo mang (không thể phùng mang). Cá trống lành bệnh vẫn sinh sản bình thường.

4. Bệnh nấm velvet (nấm Oodinium)

– Tổng quan: Oodinium là dạng ký sinh trùng hình que phát triển qua giai đoạn bào tử. Giống như bệnh đốm trắng, chúng trú ngụ bên dưới lớp da của cá. Chúng bắt đầu phát triển từ những đốm nhỏ li ti trên mình cá. Trong điều kiện thích hợp, các bào tử tạo ra một lớp “nhung” (velvet) màu vàng-nâu bao phủ bên ngoài da cá. Bệnh này rất dễ lây. Cá bị nhiễm bệnh thường bơi giật cục, cố cọ quẹt thân mình lên các vật thể trong hồ và thở gấp gáp. Cũng cần lưu ý rằng ngay cả khi cá không còn đốm nào cũng không có nghĩa là bệnh đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Chúng vẫn có thể sống trong nước và dưới đáy hồ. Bạn nên chữa trị liên tục trong một tuần để đảm bảo mầm bệnh bị tiêu diệt hoàn toàn (nếu nước ấm, nếu nước lạnh thì phải lâu hơn). Ký sinh trùng trên mình cá rất khó diệt, chúng chỉ bị tiêu diệt khi rời mình cá và bơi trong nước. Vì vậy, việc tăng nhiệt độ là rất cần thiết. Nếu để nước lạnh thì chu trình sinh trưởng của chúng sẽ diễn ra trong nhiều tuần.

– Cách phòng bệnh: Cách ly cá mới và cây thuỷ sinh để đảm bảo rằng bạn không đem mầm bệnh từ bên ngoài vào hồ. Không nên thay đổi nhiệt độ hồ một cách đột ngột. Luôn bỏ túi đựng cá vào hồ mới khoảng 15 phút để nhiệt độ hai bên cân bằng trước khi thả cá.

– Cách điều trị: tăng nhiệt độ nước để chu trình sinh trưởng của ký sinh diễn ra nhanh hơn (khoảng từ 21 đến 26 độ). Tắm bằng nước muối làm ký sinh rời khỏi mình cá. Những hoá chất có chứa muối đồng như Coppersafe hay Aquarisol cũng điều trị rất hiệu quả. Có nhiều loại thuốc chuyên để chữa bệnh velvet có thể tìm thấy trong các tiệm cá cảnh nhưng bạn nên nhớ rằng thuốc càng mạnh thì cá càng bị căng thẳng. Malachite green được khuyến cáo không nên sử dụng đối với cá da trơn như cá nheo, cá chạch và những cá khác như cá tetra (sản phẩm dùng riêng cho chúng là Clear Ich của hãng Aquatronics).

5. Bệnh sình bụng

– Tổng quan: nếu nói một cách chính xác thì sình bụng là một triệu chứng chứ không phải là một bệnh. Cá bị sình bụng có phần bụng căng phồng. Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này. Đôi khi, bệnh này không lây nhiễm nhưng cá bị bệnh nên được cách ly và điều trị thích hợp. Bụng cá căng đầy nước và không có khả năng đào thải. Bụng căng làm vẩy cá rộp lên trông giống như “quả thông”.

– Triệu chứng:
+ Sình bụng cấp tính: tức bụng căng lên bất thình lình. Cá bị nhiễm khuẩn gây xuất huyết nội.
+ Sình bụng mãn tính: tức bụng căng lên từ từ. Ký sinh trùng hay bướu phát triển ở bụng cá có thể gây nên tình trạng này.
+ Sình bụng mãn tính: tức bụng căng lên từ từ. Cá bị bệnh lao cá Mycobacterium tuberculosis. Bệnh này lây rất mạnh.
+ Những nguyên nhân khác gồm nhiễm virus, tổn thương nội tạng, suy thận vì sử dụng quá nhiều thuốc hay thuốc quá mạnh.

– Cách điều trị: bệnh này rất khó chữa trị nhưng nếu nguyên nhân là vi khuẩn và được phát hiện sớm thì có thể chữa khỏi. Vì vậy cần phải tìm hiểu xem có phải bệnh do vi khuẩn gây ra hay không, việc phát hiện nguyên nhân gây bệnh là một phần của điều trị và phòng bệnh. Khi các vẩy xù lên chứng tỏ cá bị bệnh trầm trọng. Ngâm cá trong nước muối có thể giúp tiêu bớt chất lỏng trong mình cá. Có một loạt các loại thuốc dùng để chữa bệnh sình bụng do nhiễm khuẩn nội tạng. Các loại thuốc chữa bệnh ngoài da không có tác dụng trong trường hợp này.

6. Bệnh sưng mắt

– Tổng quan: sưng mắt vốn không phải là một bệnh mà là một triệu chứng gây ra bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau như nhiễm khuẩn (và có thể nhiễm thêm cả nấm), môi trường (chẳng hạn như nước dơ) hay vết thương sưng tấy ở mắt vì bị cá khác cắn. Cá có thể bị sưng tấy một mắt hay cả hai. Con ngươi lòi hẳn ra khỏi hốc mắt và đôi khi bị mờ đục.

– Cách điều trị: nếu chỉ có một mắt bị sưng thì nguyên nhân thường là vì bị thương và mắt phản ứng bằng cách sưng lên và dồn chất lỏng về đó. Cần cách ly cá và thay nước thường xuyên để mắt có thời gian tự phục hồi. Có thể chữa trị bằng muối epsom tức muối MgSO4 ngậm nước (1 muỗn trà/ 20 lít, sau 3 ngày giảm còn nửa muỗng). Nếu cả hai mắt đều bị sưng thì có lẽ cá bị nhiễm khuẩn và nên điều trị bằng Maracyn, Penicillin hay Tetracycline. Có thể sử dụng kháng sinh Neomycin sulphate (250 mg/ 4 lít) với tầm tác dụng rộng trên các vi khuẩn gram+ và gram- . Bạn cũng có thể dùng những loại kháng sinh khác. Nhưng nếu cá bị quá nặng thì rất khó chữa trị. Có thể cho cá ăn thức ăn có trộn thuốc (vì kháng sinh rất khó thẩm thấu vào cơ thể cá). Chỉ nên dùng kháng sinh trong hồ điều trị để tránh ảnh hưởng đến bộ lọc ở hồ chính.

7. Bệnh đốm đỏ (Aeromonas salmonicida)

– Tổng quan: bệnh gây ra bởi vi khuẩn Aeromonas salmonicida với triệu chứng bao gồm các vết thương hở miệng hay mụn nhọt trên mặt da. Khó lây nhiễm, chỉ lây khi tiếp xúc trực tiếp với phần da nhiễm bệnh. Cá nên được cách ly và chữa trị bằng kháng sinh. Vi khuẩn nhiễm vào máu và lan truyền khắp cơ thể, đặc biệt là các nội tạng quan trọng. Bệnh này lan truyền trong máu rất nhanh chóng và làm các mạch máu nhỏ bị vỡ và vi khuẩn lan ra các tế bào xung quanh. Nếu gặp điều kiện thích hợp, bệnh sẽ trở nên rất trầm trọng.

– Cách phòng bệnh: nước dơ làm bệnh phát triển mạnh hơn. Kiểm tra các nguyên nhân làm cá bị căng thẳng, pH, ammonia, nitrite, nitrate và những vật chủ trung gian truyền bệnh (chẳng hạn như sán lá).

– Cách điều trị: có thể sử dụng các loại thuốc chữa bệnh ngoài da như hydrogen peroxide hay formalin/formol để tắm cho cá. Thuốc kháng sinh, đặc biệt là những loại có thể thẩm thấu vào cơ thể (tetracycline, erythromycin và nitrofurazone không chữa trị bệnh này hiệu quả). Thức ăn có trộn kháng sinh.

8. Bệnh nhiễm khuẩn

– Tổng quan: có vô số các loại vi khuẩn gây bệnh cho cá. Vi khuẩn luôn hiện diện trong nước. Cá bị vi khuẩn tấn công và nhiễm bệnh khi nó yếu đi vì căng thẳng hay vì những nguyên nhân khác (chẳng hạn như nước dơ, bị cá khác bắt nạt, nhiệt độ và môi trường không thích hợp hay thậm chí bị thương). Bệnh nhiễm khuẩn thường gây ra một số triệu chứng điển hình như sau: bơi lờ đờ, bỏ ăn, đôi khi trên thân và vây có xuất hiện những vệt đỏ hay thậm chí lở loét…

– Cách phòng bệnh: thuốc kháng sinh không thực sự tiêu diệt vị khuẩn, thay vào đó nó giúp tăng cường hệ thống miễn dịch để cá tự chống lại bệnh tật. Do vậy, cần hết sức theo dõi và điều chỉnh các yếu tố về môi trường, chất lượng nước, dinh dưỡng và những yếu tố khác. Cá rất dễ bị nhiễm bệnh một khi chúng bị căng thẳng do tác động của các yếu tố môi trường (cá khác đe doạ, nhiệt độ không thíc hợp hay thay đổi đột ngột…) cũng như nước dơ.

– Cách điều trị: có nhiều loại vi khuẩn nên cũng có nhiều loại thuốc chữa bệnh liên quan đến vi khuẩn. Một số thuốc có tác dụng trên vi khuẩn gram âm trong khi số khác lại tác dụng trên các vi khuẩn gram dương. Nếu bạn không biết cá của bạn bị mắc loại vi khuẩn nào thì bạn nên sử dung các loại kháng sinh phổ rộng tức có tác dụng với cả gram âm lẫn gram dương. Hầu hết những vi khuẩn gây bệnh cho cá đều là loại gram âm. Những loại vi khuẩn gram âm thông dụng gồm Aeromonas hydrophila, Aeromonas salmonicida, Flavobacterium columnare (gây bệnh lở miệng), Vibrio và Pseudomonas. Những loại vi khuẩn gram âm khác thuộc lớp coliform (vi khuẩn tiêu hoá) chẳng hạn như E. coli và các vi khuẩn phân huỷ như Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp. và septicemia (gây ra những đốm đỏ ở cá).

Nguồn: kithuatnuoitrong.com

Thảo luận cho bài: Một số bệnh thường gặp ở cá Betta

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *