Gừng được xếp vào nhóm cây thường niên, thân thảo. Thông thường, cây cao 0,6 -1m, thân ngầm phình to chứa dưỡng chất gọi là củ, xung quanh có các rễ tơ; củ và rễ chỉ phát triển tập trung ở lớp đất mặt (sâu 0 -15cm).
Lá màu xanh đậm dài 15 – 20cm, rộng 2cm, chỉ có bẹ mà không có cuống, mọc thẳng và so le, mặt nhẵn bóng, độ che phủ của tán lá thấp.
Cây gừng ít khi ra hoa, trục hoa mọc ra từ gốc, dài 15 -20cm; hoa màu vàng xanh dài tới 5cm, rộng 2 – 3cm, có 3 cánh hoa dài khoảng 2cm, mép cánh hoa và nhụy hoa có màu tím.
Số lượng chồi nằm ở củ gừng không nhiều và là nguồn để nhân giống chủ yếu hiện nay.
1. Thời vụ trồng gừng
Gừng trồng từ đầu xuân (tháng 1 – 2) đến cuối vụ xuân (tháng 4 – 5). Cuối năm khoảng từ tháng 10 – 11 – 12 hàng năm ta có thể thu gừng. Thời gian sinh trưởng của gừng từ 8 – 10 tháng tùy từng giống.
2. Đất trồng gừng
Cây gừng có thể sống ở đất ẩm, đất xấu, bóng râm của vườn, khi trồng thành ruộng, theo luống phải phủ ở giai đoạn đầu, khi cao sẽ không phải phủ luống chỉ phủ gốc. Nên trồng đất có khả năng thoát nước, gừng có thể trồng được ở nhiều đất, song cho năng suất khác nhau tùy thuộc chất đất.
Đất trồng nên được vệ sinh, dọn sạch tàn dư, cày sâu ít nhất là 20cm và bừa cẩn thận cho tơi xốp; sau đó tiến hành bón lót phân, chế phẩm sinh học… rồi lên luống cao 10 – 20cm, mặt luống rộng 40 – 50cm (trồng 2 hàng/luống), san phẳng mặt luống và đào rãnh thoát nước.
Đối với phương pháp trồng trong túi/bầu thì công đoạn chuẩn bị đất cũng được tiến hành tương tự, nhưng đất sẽ được cho vào túi/bầu với lượng thích hợp (thông thường, túi/bầu có đường kính 40 – 50cm).
3. Chuẩn bị giống:
Bà con nông dân rất ít khi có gừng giống để sẵn trong nhà, thường mua gừng giống từ các địa phương khác chuyển tới nên nông dân rất dễ mua phải gừng non, gừng chưa đúng độ tuổi để dùng làm giống (thường khoảng 8 tháng) hoặc gừng trước đó đã bị nhiễm bệnh. Để xác định được gừng đã già và có thể làm giống được, cần quan sát những đặc điểm sau đây:
Khi bẻ củ gừng ra, bên trong ruột củ gừng có màu vàng sậm.
Phía trên đỉnh sinh trưởng của củ gừng có eo thắt lại (gừng đã già và phần thân đã tàn lụi tự nhiên, chứ không phải dùng các biện pháp khác để tác động như phun muối hoặc dùng chân để đạp lên cây gừng).
Trồng phải gừng non hoặc gừng đã nhiễm bệnh trước đó thì gừng sẽ kém phát triển và bệnh hại phát triển mạnh sau này.
4. Ươm hom giống gừng
Dùng dao cắt hom, mỗi hom có ít nhất 3 – 4 mắt, cắt nhẵn, chấm tro bếp ngay để hãm nhựa.
Sau cắt hom 4 – 6 tiếng: ta xếp đều trên các khay, dưới lót bao, trên phủ bao ẩm. Sau 2 – 3 ngày dùng rơm rác mục sạch phủ kín, tưới ẩm và che kín để khoảng 1 – 2 tuần.
Sau 10 – 15 ngày các hom gừng nhú mắt, ta có thể đem trồng (hom già mọc chậm hơn hom bánh tẻ).
5. Chuẩn bị đất:
* Mật độ và kỹ thuật trồng:
Trên mỗi luống trồng thành 2 hàng so le nhau (kiểu nanh sấu), với hàng cách hàng 40 – 50cm và cây cách cây 30 – 40cm (đất xấu trồng dày, đất tốt trồng thưa). Đặt giống (đã chuẩn bị trước) sâu 5 – 7cm, mắt mầm/chồi hướng lên hoặc hướng ngang (có nhiều mắt mầm/chồi), lấy đất mịn phủ lên rồi ấn chặt tay để đất tiếp xúc tốt với củ, sau đó phủ đất mịn cho bằng mặt luống.
Đối với phương pháp trồng trong túi/bầu thì trồng với mật độ thưa hơn vì cây được chăm sóc dễ dàng hơn.
6. Chăm sóc:
Nếu trồng bằng nhánh chưa nảy mầm thì sau 15 – 20 ngày củ sẽ bắt đầu đâm chồi và xuất hiện lá non.
7. Tưới nước:
Cần cung cấp đủ nước trong suốt quá trình sống cho cây theo nguyên tắc chung: Gừng là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng nước.
Tuy nhiên, trong quá trình trị bệnh (đặc biệt là bệnh thối củ) ở một số thời điểm nhất định thì việc cắt giảm nước tưới để hạn chế sự lây lan của dịch hại là cần thiết.
8. Làm cỏ, vun gốc:
Tiến hành phun trừ hoặc làm cỏ dại bằng tay vào giai đoạn 25 – 30 ngày sau khi trồng (NST), kết hợp với bón thúc đợt 1 và xới xáo, vun gốc cho cây. Trong các tháng sau, khi thấy cỏ dại mọc lấn át cây gừng thì phải làm sạch và tủ lại quanh gốc.
Mặt khác, cần bảo quản tốt diện tích canh tác, không để các con vật cắn phá, dẫm đạp lên cây. Không để củ lộ khỏi mặt đất để đảm bảo phẩm chất và giá trị thương phẩm của gừng.
9. Bón phân:
Tuỳ thuộc vào thổ nhưỡng, thực trạng của cây và mục đích sử dụng, lượng phân cần cho 1 ha:
Bón lót 3 – 5 tấn phân chuồng (nên kết hợp phân chuồng và các loại phân khác) và các chế phẩm sinh học với lượng thích hợp;
Bón thúc 100 – 120kg Urea + 150 170kg Super lân + 200 220kg Kali vào các thời điểm 25 – 30, 90 – 100 và 150 – 160 NST.
* Chú ý: Ngoài các thời điểm bón phân nêu trên, nếu thấy lá gừng bị vàng do thiếu đạm thì có thể tiến hành bón qua lá bằng cách phun với lượng 10g Urê/bình 10 lít nước.
10. Phòng trừ sâu bệnh:
Một số sâu bệnh phổ biến thường gặp trên gừng
* Sâu hại:
Sâu đục thân thường xuất hiện vào đầu mùa mưa. Sâu đục vào bên trong và ăn phần non, nếu bộc phát mạnh sẽ làm giảm đáng kể năng suất gừng.
Phòng trị: Sử dụng các loại thuốc trừ sâu có tính lưu dẫn như: Basudin, Regent, Furadan, Kinalux…
* Chú ý: Khi thấy bướm sâu đục thân xuất hiện hoặc sâu ở tuổi 1 – 2 thì tiến hành phun thuốc diệt ngay, nếu chậm trễ, khó phòng trị kịp thời.
* Bệnh hại:
a. Bệnh cháy lá:
Bệnh do nấm Fusarium gây nên, thường vết bệnh xuất hiện trên chóp lá và cháy từ chóp vào hoặc có những vết cháy hình tròn hoặc bầu dục trên lá. Nếu bệnh phát triển mạnh, nấm tấn công vào nách lá, xuống củ làm chết cả cây.
Phòng trị: Sử dụng các loại thuốc Appencard, Bavistin, Carbenzim, Score…
b. Bệnh thối củ:
Thối xanh:
Bệnh do vi khuẩn lưu tồn trong đất, nước, củ và thân cây gừng bị bệnh và lây lan rất nhanh qua vết thương do cơ học hoặc côn trùng gây ra. Gừng đang xanh bỗng héo đột ngột vào giữa trưa, có tươi lại vào lúc chiều mát và chết rất nhanh; thân bị nhũn nước, tách rời củ và có màu sậm; khi nhổ lên, đỉnh sinh trưởng có nước màu đục và có mùi hôi đặc trưng.
Phòng trừ: Do đặc điểm bệnh rất khó trị, lây lan nhanh và gây tổn thất lớn nên phòng bệnh là vấn đề cần thiết và bắt buộc. Cần tiến hành thực hiện các biện pháp sau:
Ngay sau thu hoạch vụ trước (đối với đất trồng chuyên) hoặc trước khi tiến hành xuống giống, cần vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy thân cây dư thừa (nguồn lưu tồn bệnh);
Tránh để cây bệnh gần hoặc vứt xuống nguồn nưới tưới để tránh lây lan, bố trí canh tác ở chân đất không bị ngập úng;
Bón lót phân hữu cơ, chế phẩm sinh học Tricô (trong thuốc vi sinh Tricô có chứa nấm Trichoderma, khi xử lý thuốc để phòng bệnh cho cây trồng thì nấm này cần thời gian để thích hợp với môi trường trong đất và nhân mật độ lên nhiều hơn thì sau đó mới có tác dụng đối kháng với mầm bệnh trong đất);
Bón lót vôi với liều lượng 50 – 100 kg/1.000 m2 để xử lí đất;
Xử lí giống bằng các loại thuốc gốc đồng, Score, Phatox với liều lượng thích hợp để diệt mầm bệnh;
Khi thấy gừng có triệu chứng xoắn lá thì tiến hành phun các loại thuốc Kasuran, Kasumin, Starner… kết hợp với một số thuốc đặc trị các loại rầy mềm, rệp sáp tấn công như Diazan, Supracide…
Luân canh cây trồng hợp lý để cắt nguồn bệnh lưu tồn.
Thối vàng:
Bệnh do nấm Fusarium tấn công vào củ, xuất hiện trong điều kiện ẩm ướt kéo dài. Bệnh có triệu chứng vàng lá, sau đó rụng và chết tương đối chậm; trên củ có vết màu nâu, phần củ nhăn nheo và teo lại có phủ lớp tơ màu trắng.
Phòng trị: Xử lí đất và giống trước khi trồng, sử dụng các loại thuốc Appencard, Carban, Carbenzim, Ridomyl, Score…
11. Thu hoạch và tồn trữ:
Tuỳ vào mục đích sử dụng, có thể thu hoạch gừng từ 4 tháng trồng trở đi. Gừng để làm giống thì phải thu hoạch sau 9 tháng.
Cẩn thận dung cuốc để thu hoạch gừng, tránh làm xây xác củ (làm giảm giá trị thương phẩm và khó bảo quản); sau đó nhổ cả bụi, rũ sạch đất, chất thành khóm và tiến hành cắt lấy củ.
Gừng cần được bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát (tương tự như bảo quản các loại cây thân củ và rễ củ khác). Các củ giống được đặt vào thùng, chậu hoặc trải đều trên sàn nhà, ở dưới và trên mỗi lớp củ được phủ bằng một lớp đất mịn, khô, dày 1 – 2cm. Trong qúa trình tồn trữ và bảo quản, có thể sử dụng một số hoá chất đặc hiệu để phòng ngừa côn trùng cắn phá./.
Nguồn: nghenong.com