Cây Luồng

Cây Luồng có tên Việt nam: Luồng, Tên địa phương: Luồng Thanh Hoá, Mạy sang, Mạy sang núi, Mạy sang num, Mạy mèn. Tên khoa học: Dendrocalamus membranaceus Munro.

1. Đặc điểm nhận biết

Luồng là loại tre to, không gai, lá nhỏ, mọc cụm – thân ngầm dạng củ, thưa cây, thân khí sinh có ngọn cong ngắn.

Kích thước cây trung bình: Thân tre cao 14m, ngọn cong 1m, đường kính 10cm, lóng dài 30cm, vách thân dầy 1cm, thân tre tươi nặng 37kg.

Thân cây nây – độ thon ít, thẳng, tròn đều. Hai phần ba thân tre về phía gốc tròn đều, vòng đốt không nổi rõ, 2-3 đốt cuối cùng có ít rễ. Một phần ba thân tre về phía ngọn mang cành lá, thân có vết lõm nông, nơi quang trống thì cành có thể xuống gần gốc. Mỗi đốt có một cành chính to, dài và 2-5 cành nhỏ hơn, gốc cành chính phình to (gọi là đùi gà) có khả năng phát sinh mầm và rễ. Chét là những cành ở sát mặt đất gữa phần gốc thân khí sinh và phần củ thân ngầm. Phiến lá thuôn hình ngọn giáo, dài 18cm rộng 1,5cm hai mép có răng sắc rất nhỏ, đầu nhọn đuôi hình nêm hay gần tù. Lá khi non mầu xanh thẫm, mềm mại; khi già mầu xanh nhạt có những chấm nhỏ mầu gỉ sắt. Bẹ mo hình chuông, đáy trên 10cm đáy dưới 30cm, cao 37cm; lúc non 1/2 phía trên mầu vàng đỏ, 1/2 phía dưới mầu vàng xanh; mặt ngoài có nhiều lông mầu tím nâu- hung đen. Tai mo phát triển và có nhiều lông mầu nâu. Thìa lìa xẻ răng sâu thành dạng lông. Lá mo hình mũi giáo, có lông cả 2 mặt, hơi lật ngửa – cụp về phía ngoài. Mo sớm rụng, khi cây măng toả đuôi én thì mo trên thân cũng rụng gần hết. Măng ở giai đoạn thấp có mầu tím nâu, lên cao có mầu tím hồng hay tím đỏ; lên cao hơn nữa có mầu tím da cam hay đỏ hồng; khi cây măng vượt ra ánh sáng măng có mầu xanh vàng hay xanh xám nhạt.

Hoa tự cành nhiều chuỳ, các bông chét tập hợp thành cụm thành hình cầu ở các đốt của trục hoa tự. Bông chét hình trái xoan nhọn, trung bình dài 10mm, rộng 4mm

Cây Luồng - cay luong 640x497

2. Đặc tính sinh học, sinh thái học

2.1. Điều kiện tự nhiên:

Vùng phân bố chính của Luồng có khí hậu nóng, ẩm, một năm có hai mùa: mùa nắng nóng, mưa nhiều, thường từ tháng 4-5 đến tháng 10-11 lượng mưa chiếm tới 70 – 80% lượng mưa cả năm; mùa lạnh, mưa ít, thường từ tháng 11-12 đến tháng 3-4 năm sau lượng mưa chỉ có khoảng 20-30% lượng mưa cả năm. Nhiệt độ bình quân năm khoảng 23-24 0C, nhiệt độ tối đa có khi lên đến 420C. Độ ẩm không khí 87%. Lượng mưa 1600-2000mm/năm. Lượng bốc hơi hàng năm khoảng 677mm.

Địa hình là đồi, có độ dốc vừa phải (dưới 300) cao dưới 800m so với mặt biển; nơi đất bằng, chân đồi hoặc sườn thoải thì Luồng sinh trưởng tốt hơn.

Đất feralit phát triển trên đá Poocphia, đá vôi, phiến thạch, phyllit hoặc phù sa cổ, có độ sâu 50 – 150 cm hoặc hơn; thành phần cơ giới thường là sét pha nặng đến sét pha trung bình; độ ẩm 80-90% độ ẩm lớn nhất ngoài đồng; mầu đất thường là vàng hoặc vàng đỏ; pH (H2O) = 4,6-7; hàm lượng P2O5 và K2O dễ tiêu thường nghèo; hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp.

2.2. Đặc điểm quần thể, sinh sản, sinh trưởng và phát triển.

Chưa gặp rừng Luồng tự nhiên,. Trong thực tế có thể gặp Luồng trồng sen từng đám trong rừng thứ sinh, rừng Luồng thuần loại hoặc có xen cây gỗ tập trung thành rừng trên diện tích lớn và cũng được trồng phân tán một số khóm xung quanh nhà.

Những năm mới trồng, khi rừng chưa khép tán có thể trồng xen cây nông nghiệp như lạc, đỗ, ngô, sắn. . . Cây gỗ tái sinh tự nhiên tương đối nhiều như: Lim xanh (Erythropholeum fordii), Sòi tía (Sapium discolor), Mán đỉa (Archidendron clypearia), Hu đay lá hẹp (Trema angustifolia), nhưng tồn tại lâu dài với Luồng chỉ có Lim xanh.

Mới gặp Luồng ra hoa từng khóm rồi chết và cũng chưa tìm được hạt Luồng; vì vậy khả năng phát triển rừng Luồng từ hạt là chưa có.

Thân ngầm, thân khí sinh, chét và cành là phương thức sinh sản vô tính của Luồng. Cây măng sau khi đã định hình, ra cành lá đầy đủ thì những mầm ở gốc bắt đầu phát triển để cho thế hệ măng tiếp theo. Sinh trưởng của măng có thể chia thành 3 thời kỳ chính:

– Thời kỳ 1: Măng phát triển ngầm trong đất, khoảng từ tháng 9-10 năm trước đến khoảng tháng 4-5 năm sau.

– Thời kỳ 2: Măng lên khỏi mặt đất và phát triển nhanh về chiều cao, khoảng từ tháng 4-5 đến tháng 7-8 gọi là mùa ra măng.

– Thời kỳ 3: Cây măng phát triển hoàn chỉnh cành lá và rễ, khoảng từ tháng 7-8 đến tháng 10-11; Sau giai đoạn này là cây măng có thể sống độc lập. Vì vậy giống trồng lấy từ cây tuổi 1 là tốt nhất.

Cây Luồng 1-2 năm tuổi – thân non mầu xanh nhạt, bóng, có ít phấn trắng, các đốt có vòng lông trắng mịn, thịt trắng. Cây Luồng 3-4 năm tuổi là cây vừa, mầu xanh sẫm; cây Luồng 5 tuổi trở lên là cây già, là đối tượng để khai thác càng già mầu da càng xám lại và xuất hiện nhiều rêu mốc, thịt hồng đỏ, rõ bó mạch. Tuổi thọ của cây Luồng khoảng 8-10 năm.

Quan hệ giữa cây trong khóm vừa là cung cấp chất dinh dưỡng vừa làm chỗ dựa cho nhau. Sau khi trồng 5-6 năm rừng Luồng đã có thể đưa vào khai thác. Một khóm Luồng chuẩn có khoảng 20-40 cây (15-20 cây trong một khóm sau khai thác, 30-40 cây trong một khóm khi đến chu kỳ khai thác), tỷ lệ các cấp tuổi gần bằng 1, có 5-8 măng được sinh ra hàng năm.

3. Vùng phân bố.

Luồng có thể mọc tự nhiên từng cụm phân tán ven sông Mã tỉnh Sơn La. Thanh Hoá là cái nôi Luồng (vì thế quen gọi là “Luồng Thanh Hoá”) nhưng đều là rừng trồng.

Hiện nay Luồng được trồng nhiều ở Bắc Trung Bộ, đã dẫn giống trồng ở nhiều tỉnh phía Bắc và phía Nam. Phong trào trồng Luồng ở vùng Trung tâm Bắc Bộ phát triển rộng khắp, một số loài tre trước đây thường trồng (Diễn trứng…) phải nhường ngôi!. Giống Luồng đưa vào trồng ở các tỉnh miền Namchưa được kiểm kê tổng kết; một số khóm đã trồng ở Đông Nam Bộ, ở Quảng Trị có nhận xét là sinh trưởng bình thường.

4. Giá trị sử dụng

Luồng có tỷ lệ Xenlulo là 54% (cao nhất trong các loài tre đã được phân tích), Lignin 22,4%, Pentozan 18,8%. Sợi Luồng thường có chiều dài 2,944mm, chiều rộng 17,84m, vách tế bào dầy 8,5m. Với thành phần hoá học và kích thước sợi của Luồng nếu dùng Luồng làm nguyên liệu sản xuất giấy sẽ cho hiệu quả cao và chất lượng giấy tốt.

Luồng có khối lượng thể tích ở độ ẩm 15% là 625 kg/m3 tương đương một số loại gỗ nhóm 7,nhưng do có cấu tạo và sắp xếp đặc biệt của tế bào sợi dài và những bó mạch (216 bó mạch/cm2) nên Luồng có giới hạn bền khi nén dọc thớ (ở độ ẩm 15% là 497kg/cm2 ) và giới hạn bền khi kéo dọc thớ (ở độ ẩm 15% là 3384kg/cm2), hơn hẳn nhiều loại gỗ.

Chính vì vậy dùng Luồng làm cột chống, xà đỡ trong xây dựng, giao thông vận tải, chèn hầm lò là rất tốt. Luồng dùng làm nguyên liệu sản xuất ván ghép thanh thì vừa đẹp lại chắc bền, được nhiều người ưa chuộng, là mặt hàng xuất khẩu rất có giá trị.

Măng Luồng ăn ngon lại to nên ngoài ăn tươi còn thường được phơi khô. Trong thập kỷ 70 Thanh Hoá đã có xí nghiệp đóng hộp măng Luồng để xuất khẩu.

Nguồn: vafs.gov.vn

Tìm bài này trên Google:

  • cay luong

Thảo luận cho bài: Cây Luồng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *