I. Tổng quan
– Trong nuôi cấy invitro, một phương thức đơn giản và thường hay được sử dụng để tái sinh chồi invitro là nuôi cấy đỉnh sinh trưởng. Hiểu một cách đúng nghĩa thì nuôi cấy đỉnh sinh trưởng là sử dụng phần mô phân sinh ngọn với 3 – 4 tiền phát khởi lá, tức là các đỉnh sinh trưởng có kích thước từ 0,1 – 0,15mm tính từ chóp sinh trưởng. Kỹ thuật này khá phức tạp, phải thực hiện dưới kính lúp và khả năng sống sót của mẫu cấy có kích thước nhỏ như thế thường không cao, do đó chỉ được tiến hành khi cần nuôi cấy với mục đích tạo các cây con invitro sạch virus. thu thuat blogspot
– Trên thực tế người ta thường nuôi cả đỉnh chồi non với kích thước khoảng vài mm. Đó có thể là đỉnh chồi ngọn hoặc đỉnh chồi nách. Mỗi đỉnh sinh trưởng nuôi cấy ở điều kiện thích hợp sẽ tạo ra một hay nhiều chồi và mỗi chồi sẽ phát triễn thành cây hoàn chỉnh. Xét về nguồn gốc của các cây đó, có thể có ba khả năng:
+ Cây phát triễn từ chồi ngọn.
+ Cây phát triễn từ chồi nách phá ngủ.
+ Cây phát triễn từ chồi mới phát sinh, ví dụ: nuôi cấy đoạn trụ hạ diệp của cây mãng cầu (Annona squamosa) sẽ cho rất nhiều mầm (buds) trên mô cấy và một số mầm sau đó sẽ phát triễn thành chồi và sau đó sẽ thành cây invitro hoàn chỉnh. Tuy nhiên thông thường rất khó phân biệt chồi phá ngủ và chối mới phát sinh.
– Các phương thức phát triển cây hoàn chỉnh từ đỉnh sinh trưởng nuôi cấy như sau:
+ Phát triển cây trực tiếp. Chủ yếu ở các đối tượng hai lá mầm (dicotyledon) như khoai tây, thuốc lá, cam chanh, hoa cúc… Ví dụ: Khoai tây (Solanum tuberosum): Mầm (đỉnh sinh trưởng) → Chồi nách → Cây
+ Phát triển cây thông qua giai đoạn protocorm. Chủ yếu gặp ở các dối tượng một lá mầm (monocotyledon) như phong lan, dứa, huệ… Cùng một lúc đỉnh sinh trưởng tạo hàng loạt protocorm (proembryo) và các protocorm này có thể tiếp tục phân chia thành các protocorm mới hoặc phát triển thành cây hoàn chỉnh. Bằng phương thức này trong một thời gian ngắn người ta có thể thu được hàng triệu cá thể. Ví dụ: Hoa lan (Orchidaceae): Đỉnh sinh trưởng → Protocorm → Cây.
– Theo Champagnat (1977) và Fast (1980), các chồi non đang tăng trưởng dài 10 – 15cm, cừa mới nhú lá thường được dùng làm vật liệu cho việc nuôi cấy đỉnh sinh trưởng. Đất bẩn được dội sách đưới vòi nước chảy và là được lột sách cho đến khi thấy rõ các chồi bên. Chồi non lúc này được nhúng vào cồn 70% và được khử trùng trong dung dịch khử trùng 10%… Các chồi bên được lấy ra và rửa trong nước cất vô trùng. Sau đó, chúng được khử lại thêm 10 phút nữa trong dung dịch khử trùng 3% có chứa Tween 80 và được rửa lại trong nước cất vô trùng. Trong tủ cấy vô trùng, phần gốc của những chồi nhỏ nhất được cắt bỏ và việc cấy được tiến hành. Trên các chồi lớn hơn, trước hết tách bỏ các lá và phần gốc bị chết do tác động của chất khử trùng, sau đó cấy vào môi trường. Phải mất một thời gian tương đối dài thì protocorm mới được thành lập. Các protocorm này được cắt ra và cấy chuyền vào môi trường mới. Ngày nay, người ta thường cấy các đỉnh chồi lớn hơn (mang 3 – 4 tiền phát khởi lá) vì dễ thành công hơn là cấy các đỉnh chồi chỉ có 2 tiền phát khởi lá. Nếu protocorm không được cắt khỏi mẫu cấy thì nó phát triễn thành cồi và ra rễ; nếu được tách ra khỏi mẫu cấy thì sẽ có sự thành lập các protocorm bất định mới từ các peotocorm ban đầu.
– Khi cấy đỉnh sinh trưởng của Cymbidium chỉ có vùng xung quanh tiền phát khởi lá u lên và cuối cùng tạo thành protocorm. Sự thành lập protocorm có thể được tạo ra mà không cần có đỉnh sinh trưởng ngọn. Khi cấy đỉnh sinh trưởng của Cattleya, các mô thường nhanh chóng hoá nâu. Vì lý do đó mà đỉnh sinh trưởng được cắt trong môi trường lỏng hoặc nước cất vô trùng và được vấy trong môi trường lỏng, nhờ đó các chất nâu dễ khuyếch tán vào trong môi trường và ít gây ảnh hưởng đến mô cấy (Fast, 1980). Ở Cattleya, người ta thường tách một chồi (3 – 5mm) với nhiều tiến phát khởi lá. Môi trường cấy Cattleya thường phức tạp hơn môi trường cấy Cymbidium (Fast, 1980 và Champanat,1977) đôi khi có chứa auxin, cytokinin, nước dừa và peptone. Sự thành lập protocorm ở Cattleya mất nhiều thời gian và luôn được tạo ra ở phần gốc của lá già nhất; thực tế đỉnh sinh trưởng ngọn không đóng vai trò gì cả và mất đi. Việc cấy các tiền phát khởi lá Cattleya cũng có thể đáp ứng cho sự thành lập protocorm.
– Môi trường nuôi cấy đỉnh sinh trưởng tương đối đơngiản và rất giống môi trường gieo hạt cho nhiều giống lan káhc nhau. Cymbidium thường được nuôi cấy trên môi trường khoáng Knudson C hoặc Vacin & Went Đỉnh sinh trưởng thường được cấy trên môi trường đặc (ngoại trừ Cattleya)nhưng protocorm thường được nhân lên trong môi trường lỏng, và protocorm chỉ tăng trưởng thành chồi con khi được cấy trên môi trường đặc, thành phần môi trường thường khác nhau trong từng giai đoạn. Môi trường có pH trong khoảng từ 4,8 – 5,8. Nồng độ đường saccharose từ 1 – 3% (w/v) hoặc đôi khi là 1,5% glucose + 1,5% fructose. Một số loài lan đơn thân thì không cần đường trong giai đoạn nuôi cấy đỉnh sinh trưởng vì sự hiện diện của đường có thể làm đỉnh sinh trưởng và và chết. Trong giai đoạn tạo protocorm, thường đường và nước dừa (0 – 15%) được thêm vào môi trường để kích thích sự thành lập protocorm. Chất điều hoà sinh trưởng thực vật nói chung không cần thiết, sự hiện diện của chúng trong môi trường có thể làm cơ hội cho đột biến lớn hơn. Nhiệt độ tối ưu cho nhân giống từ 22 – 28 độ C.
– Ánh sáng đèn huỳnh quang thường được sử dụng với 12 – 16 giờ chiếu sáng/ngày. Có thể nuôi cấy ở cường độ chiếu sáng thấp nhưng cần gia tăng ánh sáng trong giai đoạn tạo chồi từ protocorm. Nói chung có thể thực hiện việc nhân giống lan từ đỉnh sinh trưởng theo 2 cách: hoặc trên môi trường đặc hoặc trên môi trường lỏng. Trong môi trường lỏng cần lắc vòng với vận tốc rất khác nhau tuỳ theo loài nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu thường thực hiện với vận tốc thấp 2 – 5 vòng/phút. Sự nhân giống trong môi trường lỏng thường tốt hơn trên môi trường đặc bởi vì khi lắc sẽ cung cấp O2 và chất dinh dưỡng cho mẫu cấy hiệu quả hơn. Khi cây con cao khoảng 5 – 7cm với 3 – 4 lá có thể mang ra trồng trong vườn ươm.
– Các đối tượng hoa lan đã mang lại hiệu quả kinh tế đặc biệt cao. Sau những kết quả đầu tiên ở chi Cymbidium của Morel (1966) người ta đã thu được kết quả rất tốt ở 22 chi khác nhau của họ này. Sở dĩ nhân giống vô tính hoa lan đạt được thành công lớn và được ứng dụng rộng rãi như vậy là vì hoa lan có phương thức sinh sản qua protocorm. Nhờ có phương thức nhân giống nhanh và rẻ tiền mà hoa lan vốn đắt trở nên có giá cả phải chăng và được nhiều người ưa chuộng. Những thành công ở họ Lan không những chỉ là bằng chứng mà còn mở đường cho việc ứng dụng kỹ thuật này đối với các loài cây khác.
II. Các bước tiến hành
2.1 Mục đích
– Khử trùng mẫu đỉnh chồi
– Khảo sát sự tái sinh cây trực tiếp từ nuôi cấy đỉnh chồi
– Khảo sát sự thành lập protocorm từ nuôi cấy đỉnh chồi
2.2 Nuôi cấy phát triễn thành cây trực tiếp
a) Nguyên vật liệu:
Đoạn thân non cây cam hoặc chanh
b) Môi trường nuôi cấy:
Môi trường MS bổ sung BA 2 ppm và NAA 0,2 ppm
c) Cách tiến hành:
– Các cành mẫu non lấy từ vườn ươm về được cắt bỏ hết lá, cắt thành đoạn 2 – 3cm, cho vào bécher.
– Rửa sạch cành mẫu bằng nước xà phòng loãng, sau đó rửa sạch xà phòng bằng nước máy nhiều lần dưới vòi nước chảy mạnh.
– Đưa cành mẫu vào tủ cấy vô trùng, ngâm trong cồn 70% trong 2 – 3 phút
– Rửa sạch cồn bằng nước cất vô trùng 1 lần.
– Xử lý mẫu bằng Ca(OCl)2 6% trong 10 phút sau đó thay bằng dung dịch Ca(OCl)2 5% trong 5 phút.
– Rửa sạch mẫu bằng nước cất vô trùng 6 – 7 lần cho hết mùi Javel.
– Cành mẫu được cắt bỏ cuống lá và 2 đầu của phần thân đã bị chất khử trùng tẩy trắng. Chia cành mẩu thành các đốt 1cm.
– Cắm các đốt vào môi trường nuôi cấy đã chuẩn bị, cho phần cuống lá hướng lên trên, chồi ngủ phải nằm trên mặt thoáng của môi trường.
– Nuôi mẫu trong điều kiện sáng 2000lux/16h/ngày ở 25 độ C.
2.3 Nuôi cấy phát triễn cây thông qua giai đoạn protocorm
a) Nguyên vật liệu:
Các đoạn chồi con Dendrobium cao 10cm
b) Môi trường nuôi cấy đỉnh sinh trưởng (cho 1L môi trường):
– Khoáng đa lượng Knudson 100mL
– Khoáng vi lượng Heller 5mL
– Skoog II MS: 2mL
– Vitamin Morel: 2mL
– Glycin: 2mL
– Inositol: 5mL
– Vitamin B1: 5mL
– Đường: 30g
– Nước dừa: 150mL
– Khoai tây: 60g
– Than hoạt tính: 0,25g
– pH: 5,5
– Agar: 6g
– Khoáng đa lượng của Knudson C (Morel, G.M, 1965)
+ NH4NO3: 500mg/L
+ NH4(SO4)2: 500mg/L
+ Ca(NO3)2: 241,3mg/L
+ KCl: 250 mg/L
+ KH2PO4: 250 mg/L
+ MgSO4: 122,15mg/L
– Khoáng vi lượng của Heller (1953)
+ AlCl3.6H2O: 0,054 mg/L
+ CuSO4.5H2O: 0,03 mg/L
+ H3BO3: 6,2 mg/L
+ KI: 0,01 mg/L
+ MnSO4.H2O: 0,08 mg/L
+ NiCl2.6H2O: 0,03 mg/L
+ ZnSO4.7H2O: 1,0 mg/L
c) Các bước tiến hành:
– Rửa sạch chồi Dendrobium dưới vòi nước chảy. Dùng dao mổ lột hết các lá non bao xung quanh chồi cho đến khi để lộ ra các chồi bên và chồi ngọn
– Ngân chồi trong nước xà phòng loãng và dùng gòn lau nhẹ lên thân chồi. Rửa cho sạch xà phòng dưới vòi nước chảy
– Lắc chồi trong cồn 70% trong 1 phút. Sau đó xử lý với dung dích javel thương phẩm theo tỉ lệ 1 : 5 trong vòng 25 – 30 phút
– Trong tủ cấy, dùng kẹp vô trùng cho chồi vào các bécher có chứa nước cất vô trùng. lắc như thế 3 – 5 lần cho hết mùi javel.
– Đặt các chồi lên giấy vô trùng.dùng dao cắt riêng từng chồi bên và chồI ngọn ra khỏi chồi mẹ ban đầu. Nhớ cắt bỏ hết các mô chết đã bị chất khử trùng làm trắng ở phần gốc chồi. Cấy từng chồi vào ống nghiệm có chứa môi trường đã chuẩn bị.
– Nuôi trong phòng sáng
– Ghi rõ tên nhóm, ngày cấy, giống cây vào tất cả các ống nghiệm
2.4 Yêu cầu chung
Thực hiện tốt thao tác cấy vô trùng và khử trùng mẫu.
Chúc các bạn thành công!
Nguồn: Sưu tầm