3. Thức ăn khoáng và vitamin
Thức ăn cung cấp khoáng thường được dùng trong chăn nuôi gia cầm là: các phức hợp muối có chứa canxi, photpho, muối amoni, muối ăn, muối của một số khoáng vi lượng.
+ Bổ sung khoáng đa lượng
Canxi cacbonat (CaCo3): dùng làm thức ăn bổ sung canxi trong khẩu phần. Canxi cacbonat có 37%Ca, 0,18% P, 0,3%Na, 0,5% K và dưới 5%Si, cho gia cầm ăn ở dạng mịn.
Đá vôi: có 32-36% Ca, 1-2% Mg, 3-4% Si, Fe và S, đá vôi được sử dụng ở dạng bột như phẩm canxi cacbonat.
Bột vỏ sò, vỏ trứng: Trong bột vỏ sò có 33%Ca, hơn 6% P, là nguồn bổ sung canxi rất tốt cho gia cầm.
Bột xương: chế biến từ xương động vật, bột xương chứa 26-30% Ca, 14-16% P, ngoà ra còn có Na, k và nhiều nguyên tố đa lượng khác là nguồn bổ sung canxi và photpho rất tốt cho gia cầm.
+ Bổ sung khoáng vi lượng:
Mangan sunfat (MnSO4, 5H2O): Dạng tinh thể màu hồng xám, chứa 23% Mangan, tan trong nước, dùng bổ sung Mn cho gia cầm. Có thể thay Mangan sunfat bằng Mangan cacbonat (MnCO2).
Coban clorua (CoCl2 – 6 H20): Bột màu đỏ hồng, tan trong nước, chứa 24% Co, dùng bổ sung Coban vào khẩu phần gia cầm, có thể thay Coban Clorua bằng Coban cacbonat hay Coban axetat.
+ Thức ăn bổ sung vitamin
Việc bổ sung các loại vitamin và hỗn hợp thức ăn được sử dụng dưới dạng premix vitamin và hỗn hợp đồng nhất các loại vitamin A, D, E, K, B1, B2, B12, PP kháng sinh phòng bệnh và chất chống oxy hoá.
Ở nước ta, premix vitamin được sản xuất theo tiêu chuẩn nhà nước TCVN -3142 – 79. Có 3 loại premix cho gà, cũng như là cho vịt ở các giai đoạn tuổi tương ứng đó là:
+ Premix vitamin gà con và gà thịt giai đoạn 1.
+ Premix vitamin cho gà thịt giai đoạn 2.
+Premix vitamin gà đẻ.
Ngoài 3 loại Premix vitamin trên còn có các loại chuyên dùng cho gia cầm như Fumevit. Đây là hỗn hợp vitamin A, D3, E, metionin và furazolidon phòng bệnh cầu trùng, bạch lị cho gà vịt. Bên cạnh các loại Premix sản xuất ở trong nước còn có rất nhiều premix vitamin nhập nội như Viton-5, phylazon, phylamin I, phylamix II…
Trên đây là yêu cầu về các loại thức ăn. Khi nuôi vịt, căn cứ vào mục đích nuôi để lấy thịt hoặc lấy trứng mà xây dựng khẩu phần ăn cho vịt một cách hợp lý nhằm:
– Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cụ thể.
– Sử dụng hợp lý các nguồn thức ăn có sẵn có ở địa phương xây dựng một công thức khẩu phần đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của vịt như bảo đảm giá thành hạ. Thức ăn được sử dụng rộng rải trong chăn nuôi vịt bao gồm:
+ Thóc tẻ
+ Ngô vàng
+ Cám loại 1
+ Bột cá loại 1
+ Bột đầu tôm
+ Khô dầu đỗ tương
+ Premix vitamin, premix vitamin khoáng.
– Trong thực tiễn, khẩu phần ăn của vịt thường được biểu thị bằng các khối lượng của các nguyên liệu trong 1kg hoặc100kg hoặc 1000kg hỗn hợp.
Thức ăn dùng cho vịt như ngô, khô đậu tương, khô dầu lạc, khô dầu bông…khi gặp điều kiện và ẩm độ thích hợp rất dễ nhiễm nấp mốc sinh ra độc tố mycotoxin.
Ngày nay đã xác định được 200 loại myco-toxin khác nhau, aflatoxin và mycotoxin do loài nấm Aspergillus flatoxin được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1960 từ những mẫu khô dầu lạc ở Braxin nhập nội vào vương quốc Anh và cũng đễn thời kỳ này người ta nhận ra Aflatoxin là mối nguy hại lớn cho sức khở con người cũng như động vật.
Có 4 loại aflatoxin: B1, B2, G1, G2 trong đó loại B1 là loaị hại nhiều nhất.
Hầu hết các loài động vật, chim muông đầu bị nhiễm độc hại Aflatoxin. Sự mẫn cảm với độc tố aflatoxin rất đa dạng, tuỳ thuộc vào loại động vật, tuổi, tính biệt, tập quán, điều kiện chăn nuôi, môi trường…
Vịt là loài động vật mẫn cảm nhất với các loại độc tố này (nhạy cảm gấp 6-10 lần so với gà). Trong thực tiễn, người ta dùng vịt con làm thí nghiệm để kiểm tra sự có mặt của aflatoxin trong thành phẩm thức ăn. Liều lượng độc tố tối đa cho phép sử dụng cho vịt là: 3g/tấn thức ăn.
Các dòng vịt khác nhau đều mẫn cảm với độc tố như nhau. Tác hại của độc tố là làm giảm năng suất, giảm sức đề kháng làm cho vịt dễ nhiễm bệnh vì mức globulin giảm, gan bị phá huỷ, sưng ống dẫn mật, khí quản, ngăn quá trình tổng hợp protein. Mức độ nhiễm độc càng nghiêm trọng nếu vịt ăn thức ăn nghèo protein.
Trong thực tế người ta phòng nhiễm aflatoxin bằng hai cách: Tránh làm hỏng sản phẩm lúc thu hoạch và ngăn ngừa sự phát triển của nấm mốc trong kho bảo quản.
– Loại bỏ thức ăn hạt bị hỏng
– Ngăn ngừa côn trùng xâm nhập, ngăn ngừa bụi bẩn tràn vào kho thức ăn.
– Giảm nhiệt độ, ẩm độ, mức oxy hoá trong kho. Nấm Aspergilus flavus sản sinh độc tố thích hợp ở nhiệt độ 25°C và ẩm độ 85% hoặc lớn hơn. Aflatoxin không thể xâm nhập vào thức ăn ở độ ẩm không khí dưới 70% (ở mức độ này hàm lượng nước của hạt khoảng 13%) và những hạt có hàm lượng dầu thực vật cao khoảng 7-10%.
Để tránh nhiễm độc tố phải phơi hạt thật khô trước khi đưa vào kho. Kho ẩm ướt là đặc bịêt nguy hiễm, và hơi nước là sản phẩm phụ trong quá trình sinh trưởng của nấm mốc để tạo chu kỳ vĩnh cửu của nó.
Sử dụng chất chống mốc là việc làm tốt để ngăn ngừa sản sinh độc tố của nấm mốc trong kho, nhưng điều trị nấm mốc thì chẳng đem lại kết quả gì, khi thức ăn có 1% nấm mốc thì cũng nên loại bỏ.